Theo
tiến
sĩ
Trần
Du
Lịch,
bước
vào
năm
2013
nền
kinh
tế
Việt
Nam
đang
phải
đối
mặt
với
nhiều
khó
khăn
thách
thức,
do
hệ
quả
để
lại
sau
5
năm
bất
ổn
kinh
tế
vĩ
mô.
4
nguy
cơ
hiện
hữu
của
năm
2013
Về
ngắn
hạn,
ông
Lịch
cho
rằng,
từ
năm
2008
đến
nay
hầu
hết
các
chính
sách
kinh
tế
vĩ
mô
đều
mang
tính
chất
tình
thế
nhằm
xử
lý
nguy
cơ
bất
ổn
kinh
tế
vĩ
mô,
nhất
là
tập
trung
chống
lạm
phát.
Sự
thay
đổi
chính
sách
liên
tục
(lúc
thắt
chặt,
lúc
nới
lỏng
đặc
biệt
là
chính
sách
tiền
tệ)
đã
làm
cho
thị
trường
bị
mất
phương
hướng
về
mặt
dài
hạn.
Mặc
dù
không
phủ
nhận
sự
tác
động
tiêu
cực
từ
thị
trường
thế
giới
nhưng
theo
ông
Lịch,
nguyên
nhân
sâu
xa
nhất
vẫn
là
sự
bất
cập
của
cơ
cấu
kinh
tế
và
tác
động
tính
hai
mặt
của
các
giải
pháp
về
tài
khóa
và
tiền
tệ.
Từ
đầu
năm
2012,
sức
mua
chung
của
nền
kinh
tế
suy
giảm
mạnh
đã
tạo
nên
vòng
luẩn
quẩn:
Sức
mua
giảm
–
tồn
kho
tăng
–
sản
xuất
giảm
–
nợ
xấu
tăng
–
tín
dụng
giảm…
Bước
vào
năm
2013,
tuy
tình
hình
có
cải
thiện
hơn
nhưng
về
cơ
bản
nền
kinh
tế
đang
phải
đối
diện
với
4
thách
thức:
Thứ
nhất,
nguy
cơ
lạm
phát
cao
kèm
theo
sự
trì
trệ
của
thị
trường
sẽ
làm
cho
tình
hình
khó
khăn
thêm
Thứ
hai,
tình
hình
nợ
xấu
chưa
được
cải
thiện
nên
dòng
tín
dụng
vẫn
bị
tắc
nghẽn,
nền
kinh
tế
không
hấp
thụ
được
vốn.
Tình
trạng
thừa
tiền
thiếu
vốn
còn
kéo
dài.
Khả
năng
tiếp
cận
vốn
của
doanh
nghiệp
vẫn
khó
khăn
nhất
là
các
doanh
nghiệp
nhỏ
và
vừa.
Thứ
ba
việc
tiếp
tục
giảm
lãi
suất
cho
vay
nữa
là
không
nhiều,
khó
đáp
ứng
mong
đợi
của
doanh
nghiệp.
Do
hoạt
động
kém
hiệu
quả
của
hệ
thống
NHTM.
Nếu
lạm
phát
kỳ
vọng
của
cả
năm
là
7
–
8%
thì
lãi
suất
cho
vay
thực
dương
theo
lãi
suất
vay
phổ
biến
hiện
nay
sẽ
rất
cao.
Như
vậy,
sẽ
không
kích
thích
được
các
doanh
nghiệp
đang
có
thị
trường
đầu
tư
mở
rộng
và
làm
tăng
nợ
xấu
đối
với
những
doanh
nghiệp
đang
nỗ
lực
phục
hồi
sản
xuất.
Thứ
tư
những
nỗ
lực
làm
ấm
lại
thị
trường
BĐS
chưa
thể
mang
lại
kết
quả
nên
thanh
khoản
của
thị
trường
này
khó
được
cải
thiện.
Một
khi
thanh
khoản
của
thị
trường
BĐS
chưa
được
cải
thiện
thì
nợ
xấu
của
NHTM
cũng
sẽ
khó
khăn.
Thiếu
một
chính
sách
căn
cơ
về
dài
hạn
Nói
về
dài
hạn,
theo
ông
Lịch
bất
cập
lớn
nhất
vẫn
là
cơ
cấu
của
nền
kinh
tế
và
mô
hình
tăng
trưởng.
Quan
điểm
tái
cơ
cấu
và
chuyển
đổi
mô
hình
tăng
trưởng
được
đặt
ra
trong
chiến
lược
10
năm
(2011
–
2020)
và
trong
kế
hoạch
5
năm
(2011
–
2015)
nhưng
cho
đến
nay
chưa
có
một
chính
sách
căn
cơ
nào
đi
vào
cuộc
sống.
Thứ
nhất,
nền
công
nghiệp
gia
công:
Một
nền
công
nghiệp
chủ
yếu
dựa
vào
gia
công,
với
lao
động
giá
rẻ,
giá
trị
gia
tăng
thấp
đã
mất
sức
cạnh
tranh
khi
hội
nhập
với
kinh
tế
khu
vực
và
toàn
cầu.
Bên
cạnh
đó,
giá
cả
lao
động
phải
tăng
liên
tục
để
bù
đắp
lạm
phát
và
yêu
cầu
cải
thiện
đời
sống
nên
chi
phí
sản
xuất
tăng,
sức
cạnh
tranh
giảm.
Công
nghiệp
hỗ
trợ
-
yếu
tố
then
chốt
để
nâng
tỷ
trọng
nội
địa
hóa
trong
cơ
cấu
giá
trị
sản
phẩm,
giảm
giá
thành
cho
đến
nay
vẫn
thiếu
chính
sách
phát
triển…
Thứ
hai,
năng
suất
tổng
hợp
(TPF)
giảm:
Đây
là
chỉ
báo
quan
trọng
thể
hiện
việc
sử
dụng
các
yếu
tố
sản
xuất
(tài
nguyên,
nhân
lực
và
vốn)
có
hiệu
quả
hay
không
nhưng
trong
10
năm
trở
lại
đây
chỉ
số
này
đã
giảm
tuyệt
đối
trong
việc
đóng
góp
vào
tốc
độ
tăng
trưởng
GDP.
Điều
đó
có
phần
dễ
hiểu
khi
tăng
trưởng
của
Việt
Nam
chủ
yếu
dựa
vào
tăng
vốn
đầu
tư.
Hệ
số
ICOR
tăng
cao,
gây
mất
cân
đối
nghiêm
trọng
giữa
tích
lũy
và
đầu
tư.
Đây
là
nguyên
nhân
sâu
xa
của
lạm
phát.
Năng
suất
và
hiệu
quả
đang
là
thách
thức
lớn
nhất
đối
với
nền
kinh
tế
của
Việt
Nam
Thứ
ba,
tái
cơ
cấu
và
chuyển
đổi
mô
hình
tăng
trưởng
đang
vướng
mắc
về
mặt
tư
duy
chính
điều
đó
làm
chậm
quá
trình
tái
cơ
cấu.
Biểu
hiện
cụ
thể:
Chức
năng
kinh
tế
của
nhà
nước
trong
điều
kiện
vận
hành
của
cơ
chế
thị
trường
bị
lẫn
lộn
giữa
nhà
nước
và
thị
trường.
Hạn
chế
trong
việc
sử
dụng
các
công
cụ
điều
tiết
thị
trường
của
nhà
nước.
Sự
phân
bổ
nguồn
lực
kém
hiêu
quả:
đầu
tư
công,
doanh
nghiệp
nhà
nước,
bất
động
sản…