Đó
là
con
số
ước
tính
của
Chủ
tịch
Hội
đồng
Thành
viên
Tập
đoàn
Than
-
Khoáng
sản
Việt
Nam
(TKV)
Trần
Xuân
Hòa,
khi
ông
nói
về
nạn
khai
thác,
vận
chuyển
than
trái
phép.
Điều
mà
TKV
lo
lắng
nhất
hiện
nay
là
gì,
thưa
ông?
Nhu
cầu
than
của
nền
kinh
tế
tăng
cao,
đến
năm
2015
dự
kiến
vào
khoảng
58-62
triệu
tấn;
2020
khoảng
111-
123
triệu
tấn;
2025:
khoảng
160-179
triệu
tấn
và
2030
khoảng
242-282
triệu
tấn.
Trong
khi
đó,
tài
nguyên
than
đá
ở
bể
than
Đông
Bắc
và
vùng
nội
địa,
không
kể
bể
than
đồng
bằng
sông
Hồng,
tính
đến
1/1/2011
là
8,9
tỷ
tấn.
Theo
quy
hoạch
bể
than
Đông
Bắc
và
các
mỏ
than
khác
(ngoài
bể
than
đồng
bằng
sông
Hồng),
sản
lượng
thương
phẩm
phấn
đấu
tối
đa
khoảng
55-58
triệu
tấn
vào
năm
2015;
60-63
triệu
tấn
vào
năm
2020
và
duy
trì
khoảng
65
triệu
tấn
giai
đoạn
2021-2030.
Với
mức
huy
động
sản
lượng
này,
bể
than
Đông
Bắc
còn
được
khoảng
30
năm,
sau
năm
2030
sẽ
cạn
kiệt.
Nguồn
tài
nguyên
than
có
tiềm
năng
ở
đồng
bằng
sông
Hồng
(khoảng
39
tỷ
tấn)
là
chủng
loại
than
phù
hợp
cho
đốt
điện
nhưng
chưa
được
thăm
dò,
xác
minh
đầy
đủ,
vỉa
than
nằm
sâu
trong
lòng
đất
(dưới
từ
600
-
2.000
m)
là
nơi
có
điều
kiện
địa
chất
công
trình,
địa
chất
thuỷ
văn
phức
tạp,
điều
kiện
khai
thác
khó
khăn,
trên
bề
mặt
là
ruộng
lúa,
làng
mạc.
Đến
nay
vẫn
chưa
xác
định
được
công
nghệ
khai
thác
phù
hợp,
nên
trong
tương
lai
gần
chưa
thể
hy
vọng
đưa
vào
cân
đối
năng
lượng.
Theo
tập
hợp
của
các
ngành
sử
dụng
than
thì
từ
năm
2015,
Việt
Nam
sẽ
bắt
đầu
thiếu
than
và
tăng
dần
vào
các
năm
sau.
Năm
2015
thiếu
5,8
triệu
tấn;
năm
2016
thiếu
25
triệu
tấn;
năm
2017
thiếu
37
triệu
tấn;
năm
2018
thiếu
52
triệu
tấn;
năm
2019
thiếu
61
triệu
tấn;
năm
2020
thiếu
66
triệu
tấn.
Tình
hình
thì
khó
khăn
như
vậy,
nhưng
việc
khai
thác,
vận
chuyển
than
trái
phép
diễn
ra
hết
sức
lộ
liễu
và
công
khai.
TKV
đang
phối
hợp
với
công
an
các
tỉnh
tổ
chức
vây
bắt
các
đối
tượng
khai
thác
than
trái
phép.
Với
mức
xử
phạt
khoảng
20
triệu
đồng/xe
than
rồi
sau
một
ngày
bắt
thì
cũng
phải
thả
xe
như
hiện
nay
thì
không
sao
chấm
dứt
được
nạn
này.
Mỗi
năm
nước
ta
mất
đi
một
lượng
than
rất
lớn
do
nạn
khai
thác,
kinh
doanh
trái
phép,
tương
đương
với
4.500
tỷ
đồng.
Theo
ông,
những
lý
do
nào
khiến
cho
“than
tặc”
trở
nên
ngày
càng
phổ
biến
như
vậy?
Tôi
cho
rằng,
trước
hết
là
vì
lợi
nhuận
từ
hoạt
động
bất
hợp
pháp
này
là
rất
lớn.
Lợi
nhuận
này
được
tạo
ra
từ
chênh
lệch
giá.
Có
hai
dạng
chênh
lệch
giá.
Thứ
nhất,
tại
thị
trường
nội
địa,
giá
than
(trừ
giá
bán
cho
ngành
điện)
ở
khoảng
1,2-1,7
triệu
đồng/tấn
tùy
loại.
Trong
khi
giá
than
khai
thác
trái
phép
chỉ
khoảng
400-500
nghìn
đồng/tấn
(chưa
kể
các
chi
phí
khác).
Như
vậy,
nếu
các
đối
tượng
khai
thác
trái
phép
hợp
pháp
hoá
than
lậu
thành
than
khai
thác
chính
thức
(được
cấp
phép,
có
đủ
giấy
tờ,
hóa
đơn...)
thì
lợi
nhuận
thu
được
khi
bán
tại
nội
địa
ít
nhất
cũng
gấp
đôi.
Thứ
hai,
trong
khi
giá
than
nội
địa
ở
mức
như
vậy,
thì
giá
than
xuất
khẩu
khoảng
trên
dưới
110
USD
(trên
2
triệu
đồng/tấn)
và
đối
tượng
khai
thác
trái
phép
cũng
sẵn
sàng
hợp
pháp
hoá
nó
để
xuất
khẩu.
Các
khoản
chênh
lệch
quá
lớn
này
đã
khiến
các
đối
tượng
thu
gom,
xuất
lậu
bất
chấp
mọi
thủ
đoạn,
để
qua
mặt
các
cơ
quan
chức
năng.
Đâu
là
giải
pháp
có
thể
chấm
dứt
nạn
“than
tặc”,
theo
ông?
Nhà
nước
cần
đẩy
mạnh
việc
thực
hiện
thị
trường
hóa
giá
than
vì
đây
mới
là
giải
pháp
giải
quyết
tận
gốc
vấn
đề
than
trái
phép.
Việc
điều
chỉnh
theo
cơ
chế
thị
trường,
thời
gian
qua
triển
khai
chậm.
Khi
giá
than
không
còn
được
bao
cấp
như
hiện
nay,
sẽ
giúp
mọi
người
tiêu
dùng
đều
phải
tham
gia
bảo
vệ
tài
nguyên
than,
sử
dụng
có
hiệu
quả
nguồn
tài
nguyên
không
tái
tạo
này
và
nạn
khai
thác,
vận
chuyển
than
trái
phép
cũng
không
còn
động
lực
để
tồn
tại.
Mặt
khác,
thực
tế
cho
thấy,
với
cơ
chế
giá
than
như
hiện
nay
không
chỉ
tạo
ra
chênh
lệch
giá
lớn
giữa
các
hộ
tiêu
dùng
trong
nước
với
nhau
và
với
giá
xuất
khẩu,
mà
còn
khiến
các
doanh
nghiệp
sử
dụng
than
trong
nước
không
có
ý
thức
sử
dụng
tiết
kiệm,
hiệu
quả
than
trong
sản
xuất,
gây
khó
khăn
trong
công
tác
quản
lý
tài
nguyên
than.
Mà
nguồn
tài
nguyên
này
của
chúng
ta
không
còn
mấy
dồi
dào
trong
tương
lai.
Tuy
nhiên,
khó
khăn
của
Chính
phủ
trong
điều
hành
giá,
là
không
thể
điều
chỉnh
một
lần
mà
có
thể
thị
trường
hoá
ngay
được
các
loại
giá
đang
còn
bao
cấp,
như
giá
than
vì
như
vậy
có
thể
làm
đảo
lộn
cả
nền
kinh
tế.
Do
đó,
những
giải
pháp
trước
mắt
cho
tình
trạng
này,
không
chỉ
chờ
đợi
các
chế
tài
xử
phạt
nghiêm
khắc
hơn,
tự
bản
thân
TKV
cũng
tính
đến
giải
pháp
cho
mình,
là
thay
đổi
hình
thức
vận
chuyển
than
từ
khai
trường
đến
các
điểm
tập
kết
bằng
băng
tải
thay
cho
ô
tô
như
hiện
nay,
vừa
giảm
được
từ
10-15%
chi
phí
trong
khâu
vận
chuyển,
vừa
mang
lại
nhiều
lợi
ích
về
kinh
tế,
môi
trường
và
quan
trọng
hơn
cả
là
hạn
chế
được
tình
trạng
thất
thoát
than
trong
quá
trình
vận
chuyển,
cũng
như
tình
trạng
vận
chuyển
than
trái
phép.
Theo
kế
hoạch,
đến
năm
2015,
TKV
sẽ
thay
thế
hoàn
toàn
hệ
thống
vận
chuyển
than
bằng
ôtô
từ
các
mỏ,
các
nhà
máy
sàng
tuyển
ra
các
bến
cảng
tiêu
thụ
bằng
các
hệ
thống
băng
tải.