"Tái
cấu
trúc
thực
sự
sẽ
chỉ
xảy
ra
khi
người
ta
dùng
việc
cân
nhắc
tới
kinh
tế
thay
cho
tính
toán
chính
trị".
Và
câu
hỏi
tiếp
theo:
tiền
và
quyền
lực
sẽ
thuộc
về
ai
sau
những
chương
trình
tái
cấu
trúc
doanh
nghiệp;
và
nợ
của
doanh
nghiệp
sẽ
do
ai
gánh
chịu?
Một
"dự
cảm"
"Tái
cấu
trúc
thực
sự
sẽ
chỉ
xảy
ra
khi
người
ta
dùng
việc
cân
nhắc
tới
kinh
tế
thay
cho
tính
toán
chính
trị"
-
một
nhận
định
mang
tính
"dự
cảm"
đáng
chú
ý
của
Jonathan
Pincus,
kinh
tế
gia
làm
việc
cho
Chương
trình
Việt
Nam,
Havard
Kennedy
School
và
cũng
là
hiệu
trưởng
của
Chương
trình
giảng
dạy
kinh
tế
Fulbright
tại
TP.HCM,
mới
đây
đăng
trên
tờ
Financial
Times.
Tại
Việt
Nam,
tái
cấu
trúc
DNNN
là
một
nhiệm
vụ
trọng
tâm
của
Chính
phủ
và
các
bộ
ngành,
đã
được
Đảng
và
Quốc
hội
thông
qua
về
chủ
trương
và
định
hướng.
Nhưng
xem
ra
khi
triển
khai
thực
tế,
ngay
từ
đầu
đã
có
nhiều
trở
ngại.
Trong
thời
gian
gần
đây,
đang
tồn
tại
những
quan
điểm
khác
nhau
về
vấn
đề
tái
cấu
trúc
DNNN.
Vẫn
có
quan
niệm
cho
rằng
"không
nên
có
cái
nhìn
cực
đoan
về
DNNN",
được
thuyết
minh
bởi
nhiều
khó
khăn
mà
những
doanh
nghiệp
điện
và
xăng
dầu
đang
phải
"gánh
chịu
thay
cho
xã
hội".
Nhưng
ở
chiều
kích
ngược
lại,
rất
nhiều
bài
viết
và
công
trình
nghiên
cứu
được
đăng
tải
trên
mặt
báo
chí,
với
nội
dung
lớn
nhất
cần
ghi
nhận
từ
nguồn
dư
luận
này
là
thực
trạng
độc
quyền
của
một
số
doanh
nghiệp
điện
và
xăng
dầu,
lực
cản
từ
các
nhóm
lợi
ích
trong
quá
trình
tái
cấu
trúc...
đã
trở
thành
những
tiêu
điểm
then
chốt
ngăn
cản
thực
chất
của
tái
cấu
trúc.
Nói
cách
khác,
việc
tái
cấu
trúc
đối
với
những
DN
dạng
này
sẽ
có
thể
trở
nên
vô
nghĩa
nếu
không
thực
hiện
được
bước
cải
tổ
mạnh
về
cơ
chế
hoạt
động
và
cả
cơ
chế
tổ
chức
nhân
sự
của
chúng.
Vào
tháng
10/2011,
một
cuộc
hội
thảo
về
kinh
tế
vĩ
mô
đã
tập
hợp
rất
nhiều
ý
kiến
đề
xuất
về
sự
cần
thiết
phải
cải
tổ
đối
với
DNNN.
Những
đề
xuất
này
đã
được
Ủy
ban
kinh
tế
gửi
đến
Quốc
hội.
Đề
xuất
đáng
quan
tâm
nhất
của
bản
kiến
nghị
trên
là
"cần
xóa
bỏ
mọi
ưu
đãi
cho
DNNN
về
tiếp
cận
các
nguồn
tín
dụng,
quyền
kinh
doanh,
tiếp
cận
tài
nguyên
thiên
nhiên,
đất
đai,
tiếp
cận
thông
tin,
nhất
là
thông
tin
về
các
loại
quy
hoạch,
tiếp
cận
các
nhà
hoạch
định
chính
sách...
Đồng
thời,
kiên
quyết
không
"khoanh
nợ,
giãn
nợ"
cho
bất
kỳ
DNNN
nào,
không
nhận
việc
trả
nợ,
xử
lý
nợ
thay
cho
doanh
nghiệp".
Có
lẽ,
đây
là
lần
đầu
tiên
ở
Việt
Nam
xuất
hiện
một
quan
điểm
kiên
quyết
thế
đối
với
vấn
đề
chân
đứng
của
DNNN.
Tuy
vậy,
nếu
theo
dõi
xuyên
suốt
quá
trình
vận
hành
của
khối
DNNN
thì
mới
thấy
chủ
đề
phản
biện
"xóa
bỏ
mọi
ưu
đãi
cho
DNNN"
là
hệ
quả
tất
yếu.
Những
hậu
quả
không
còn
là
dự
cảm
Những
thông
tin
được
báo
chí
phản
ánh
mới
đây
đã
nêu
ra
một
cách
khá
chi
tiết
về
hạn
chế
của
DNNN.
Đơn
cử,
hàng
năm
có
tới
12%
DNNN
có
kết
quả
kinh
doanh
thua
lỗ
và
mức
lỗ
bình
quân
của
DNNN
cao
gấp
12
lần
so
với
các
doanh
nghiệp
khu
vực
ngoài
nhà
nước.
Chiếm
đến
70%
vốn
đầu
tư
toàn
xã
hội,
50%
vốn
đầu
tư
nhà
nước,
60%
tín
dụng
của
các
ngân
hàng
thương
mại,
70%
nguồn
vốn
ODA,
nhưng
DNNN
chỉ
đóng
góp
khoảng
37-38%
GDP.
Có
đến
31%
DNNN
bị
lỗ
trong
sản
xuất
kinh
doanh,
29%
hoạt
động
không
hiệu
quả,
lỗ
lãi
tượng
trưng.
Chỉ
riêng
năm
2009,
nợ
của
81/91
tập
đoàn,
tổng
công
ty
nhà
nước
(chưa
tính
Vinashin)
đã
là
813.435
tỷ
đồng.
Nếu
tính
cả
nợ
của
Vinashin,
theo
báo
cáo
của
Bộ
Tài
chính
là
86.000
tỷ
đồng,
thì
nợ
của
khu
vực
DNNN
đến
năm
2009
đã
lên
tới
54,2%
GDP
của
năm
2009.
Nhiều
DNNN
cũng
đang
lâm
vào
nạn
nợ
nần.
Không
chỉ
doanh
nghiệp
không
được
độc
quyền,
mà
cả
những
doanh
nghiệp
quá
được
ưu
đãi
về
cơ
chế
kinh
doanh
như
Tập
đoàn
Điện
lực
và
Tổng
công
ty
Xăng
dầu
cũng
luôn
gánh
trên
mình
những
món
nợ
khổng
lồ
nhưng
đầy
nghi
vấn
về
nguồn
gốc.
Ai
sẽ
được
hưởng
lợi?
"Muốn
cải
cách
DNNN
triệt
để,
cần
thay
đổi
quan
điểm
vai
trò
then
chốt
của
khu
vực
này"
-
bản
kiến
nghị
do
Ủy
ban
Kinh
tế
tập
hợp
gửi
đến
Quốc
hội
thẳng
thắn
đặt
vấn
đề.
Để
tái
cấu
trúc
khu
vực
DNNN,
biện
pháp
cấp
bách
được
bản
kiến
nghị
đặt
lên
hàng
đầu
là
Nhà
nước
không
nên
sử
dụng
DNNN
như
một
công
cụ
điều
tiết
vĩ
mô,
điều
tiết
thị
trường
hay
thực
hiện
chính
sách
xã
hội.
Tại
hội
thảo
"Triển
vọng
kinh
tế
thế
giới
và
chính
sách
ứng
phó
của
Việt
Nam"
ngày
18/10/2011,
bà
Victoria
Kwakwa
-
Giám
đốc
Ngân
hàng
Thế
giới
tại
Việt
Nam
-
cũng
cho
rằng,
hơn
lúc
nào
hết,
Việt
Nam
cần
thúc
đẩy
hơn
nữa
tái
cơ
cấu
nền
kinh
tế.
Tuy
nhiên,
tái
cơ
cấu
như
thế
nào
cho
hiệu
quả
đang
là
bài
toán
hóc
búa.
Khó
khăn
nhất
là
đụng
đến
lợi
ích
của
các
nhóm.
Vì
thế,
cần
xác
định
mục
tiêu
số
một
của
việc
bán
DNNN
là
thu
tiền
về
cho
ngân
sách
hay
là
bán
để
sau
này
nó
hoạt
động
hiệu
quả
hơn?
Những
câu
hỏi
trên
không
tránh
khỏi
một
hiện
thực
mà
nhiều
tháng
nay
người
dân
đang
suy
đoán,
bởi
quyền
lợi
của
nhóm
lợi
ích
nằm
trong
hầu
hết
các
lĩnh
vực
kinh
tế
chính,
đặc
biệt
là
những
lĩnh
vực
thể
hiện
sự
độc
quyền
như
điện,
xăng
dầu,
nước.
Lẽ
dĩ
nhiên,
công
việc
tái
cấu
trúc
DNNN
sẽ
chỉ
mang
tính
hình
thức,
hoặc
nói
cách
khác
sẽ
chỉ
là
công
đoạn
sắp
xếp
lại
một
số
mắt
xích
"cho
phù
hợp
hơn",
nếu
không
giải
quyết
được
vấn
đề
cần
tách
bạch
quyền
lợi
của
nhóm
lợi
ích
khỏi
nhiệm
vụ
của
doanh
nghiệp.
Còn
nếu
bắt
buộc
phải
thực
hiện
tái
cấu
trúc
theo
đúng
ý
nghĩa
đầy
đủ
của
cụm
từ
này,
việc
đụng
chạm
đến
các
nhóm
lợi
ích
sẽ
là
không
tránh
khỏi.
Trong
thời
gian
gần
đây,
chỉ
mới
qua
những
ý
định
tăng
giá
điện
và
xăng
dầu,
người
dân
đã
nhận
thấy
có
quá
nhiều
lực
cản
đang
án
ngữ
ngay
tại
bước
đi
đầu
tiên
trên
con
đường
tái
cấu
trúc
DNNN.
Không
chỉ
là
những
doanh
nghiệp
được
hưởng
ưu
đãi
về
đặc
quyền,
ngay
cả
những
doanh
nghiệp
đang
vận
hành
trong
thị
trường
như
một
chủ
thể
kinh
doanh
như
Công
ty
Vàng
bạc
SJC
cũng
bị
đặt
nghi
vấn
nhiều
về
đặc
quyền
nhận
được
từ
cơ
chế
sản
xuất,
nhận
khẩu
và
kinh
doanh
vàng
miếng.
Dường
như
"dự
cảm"
của
Jonathan
Pincus,
kinh
tế
gia
đã
đề
cập
ở
phần
đầu
bài
viết
này,
về
"tái
cấu
trúc
thực
sự
sẽ
chỉ
xảy
ra
khi
người
ta
dùng
việc
cân
nhắc
tới
kinh
tế
thay
cho
tính
toán
chính
trị",
đang
có
được
những
cơ
sở
thực
tiễn
để
thuyết
minh
cho
nó.
Câu
hỏi
tiếp
theo:
đối
tượng
sẽ
được
lợi
nhiều
nhất
sau
những
chương
trình
tái
cấu
trúc
doanh
nghiệp;
và
nợ
của
doanh
nghiệp
sẽ
do
ai
gánh
chịu?