Việt
Nam
đang
đứng
trước
cơ
hội
lớn
trở
thành
trung
tâm
gạo
của
thế
giới,
song
để
nắm
giữ
vai
trò
này,
ngành
gạo
vẫn
còn
rất
nhiều
việc
phải
làm.
Gạo
Việt
Nam
tăng
khả
năng
cạnh
tranh
Thái
Lan
là
nước
xuất
khẩu
gạo
lớn
nhất,
chiếm
30%
lượng
cung
trên
toàn
thế
giới,
tháng
10/2011
vừa
qua,
Chính
phủ
Thái
Lan
đã
cam
kết
hỗ
trợ
ngành
công
nghiệp
này
bằng
cách
mua
lúa
gạo
ở
khoảng
50%
cao
hơn
giá
thị
trường,
dẫn
đến
giá
xuất
khẩu
có
thể
tăng
lên
đến
800
USD/tấn
từ
mức
610
USD/tấn
hiện
nay.
Trong
khi
đó,
Việt
Nam
đang
từng
bước
giành
vị
thế
trung
tâm
gạo
thế
giới.
Tính
từ
đầu
năm
đến
nay,
Việt
Nam
đã
xuất
khẩu
6,9
triệu
tấn
gạo,
đạt
kim
ngạch
3,5
tỷ
USD.
Đây
là
một
tín
hiệu
tích
cực
cho
ngành
gạo
Việt
Nam,
khi
giá
gạo
Việt
Nam
xuất
khẩu
đã
thu
hẹp
khoảng
cách
so
với
giá
gạo
Thái
Lan
cùng
chủng
loại.
Khoảng
cách
giữa
giá
gạo
Việt
Nam
và
Thái
Lan
đã
thu
hẹp
đáng
kể
từ
tháng
8/2010.
Từ
chỗ
chỉ
bán
được
gạo
cùng
chủng
loại
với
giá
thấp
hơn
đến
14%
hồi
đầu
năm
2010,
đến
nay
khoảng
cách
chỉ
còn
5%.
Nguyên
nhân
chính
là,
các
nhà
nhập
khẩu
bắt
đầu
công
nhận
chất
lượng
gạo
Việt
Nam.
Không
được
chủ
quan
là
nhận
định
của
nhiều
chuyên
gia
thương
mại
hiện
nay
khi
đề
cập
cơ
hội
của
ngành
xuất
khẩu
gạo
Việt
Nam.
Lý
do
thứ
nhất
được
cảnh
báo
là
cần
lưu
ý
đến
nước
xuất
khẩu
các
loại
gạo
tương
đồng
với
mức
giá
thấp
hơn
và
đó
chính
là
Ấn
Độ.
Vừa
qua,
Chính
phủ
Ấn
Độ
cho
phép
xuất
khẩu
2
triệu
tấn
gạo,
một
số
doanh
nghiệp
gạo
của
Ấn
Độ
đã
chào
bán
với
giá
460
–
470
USD/tấn.
Với
mức
giá
như
vậy,
đương
nhiên,
các
công
ty
gạo
Việt
Nam
đang
chịu
áp
lực
cạnh
tranh
lớn
với
các
doanh
nghiệp
gạo
Ấn
Độ.
Thứ
hai,
dự
báo
cho
thấy,
giá
gạo
thế
giới
có
thể
sẽ
tăng
nhẹ.
Sau
đợt
lũ
lụt
lịch
sử,
ước
tính,
Thái
Lan
bị
thiệt
hại
tới
4
triệu
tấn
lúa,
Philippines
cũng
thiệt
hại
khoảng
1
triệu
tấn
lúa
và
không
thể
hoàn
thành
kế
hoạch
tự
cung,
nên
nước
này
sẽ
sớm
nhập
khẩu
mạnh
trở
lại.
Thứ
ba,
giá
gạo
trong
nước
tăng
nhanh
hơn
giá
gạo
thế
giới,
kết
quả
kinh
doanh
quý
IV
của
các
công
ty
xuất
khẩu
gạo
sẽ
không
mấy
lạc
quan.
Cơ
hội
và
thách
thức
phát
triển
ngành
xuất
khẩu
gạo
Việt
Nam
Như
vậy,
để
trở
thành
trung
tâm
gạo
của
thế
giới,
các
chuyên
gia
cho
rằng,
đầu
tiên
Việt
Nam
cần
xây
dựng
chuỗi
giá
trị
khép
kín.
Hiện
tại
các
doanh
nghiệp
gạo
Việt
Nam
mới
bắt
đầu
xây
dựng
chuỗi
giá
trị
khép
kín
từ
sản
xuất
đến
xây
dựng
thương
hiệu.
Thực
tế,
chuỗi
giá
trị
của
ngành
gạo
Việt
Nam
có
thể
xác
định
như
sau:
(1)
nông
dân
trồng
lúa
trên
cánh
đồng
của
riêng
mình,
(2)
thương
lái
mua
lúa
từ
nông
dân
rồi
mang
về
xay
xát
tại
các
nhà
máy,
và
(3)
công
ty
xuất
khẩu
gạo
có
thể
mua
gạo
nguyên
liệu
về
và
đánh
bóng
hoặc
mua
gạo
thành
phẩm
từ
thương
lái
và
sau
đó
xuất
khẩu.
Trong
ba
nhóm
lợi
ích:
nông
dân,
thương
lái
và
doanh
nghiệp
xuất
khẩu,
nhóm
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
thường
có
tiềm
lực
tài
chính
mạnh
nhất.
Tuy
nhiên,
nhóm
này
chỉ
tham
gia
vào
công
đoạn
cuối
của
chuỗi
giá
trị,
nên
tỷ
suất
lợi
nhuận
còn
lại
rất
thấp.
Gần
đây,
các
công
ty
xuất
khẩu
gạo
đã
bắt
đầu
đầu
tư
vào
phát
triển
vùng
trồng
lúa.
Ngoài
ra,
việc
xây
dựng
các
kho
chứa
đạt
chất
lượng
cao
để
tăng
khả
năng
bảo
quản
và
giảm
tỷ
lệ
thất
thoát
sau
khi
thu
hoạch
là
rất
cần
thiết,
khi
mà
tỷ
lệ
thất
thoát
hiện
nay
có
thể
lên
đến
12%
trong
khi
ở
Ấn
Độ
thì
tỷ
lệ
này
chỉ
ở
mức
6%.
Thứ
hai,
việc
xây
dựng
thương
hiệu
cho
gạo
Việt
Nam
cần
phải
được
chú
trọng.
Một
số
sản
phẩm
lúa
gạo
có
tiếng
trong
nước
đã
được
các
doanh
nghiệp
nhỏ
lẻ
sản
xuất,
nhưng
chủ
yếu
phục
vụ
các
thị
trường
lân
cận;
quy
mô
sản
xuất
nhỏ
nên
không
thể
phát
triển
mạnh
và
cạnh
tranh
không
lại
với
các
thương
hiệu
khác
của
Thái
Lan.
Vì
vậy,
để
nâng
cao
tính
cạnh
tranh
của
gạo
Việt
Nam
trên
thị
trường
thế
giới,
việc
đầu
tư
từ
giống
lúa
để
đảm
bảo
cho
chất
lượng
đồng
nhất,
đến
dây
chuyền
sản
xuất
và
đóng
gói
phải
được
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
chú
trọng.
Thứ
ba,
đẩy
mạnh
đầu
tư
vào
khâu
sản
xuất
lúa
giống.
Dự
tính,
diện
tích
đất
trồng
vụ
đông
-
xuân
niên
vụ
2011/2012
là
1,7
triệu
ha,
nhu
cầu
cần
200.000
tấn
lúa
giống
để
cung
cấp
cho
trồng
trọt.
Hiện
nay,
các
cơ
sở
lai
tạo
lúa
giống
Việt
Nam
chỉ
đáp
ứng
được
khoảng
80%
nhu
cầu,
phần
còn
lại
phải
nhập
khẩu.
Bên
cạnh
những
thuận
lợi,
ngành
gạo
Việt
Nam
còn
đối
diện
nhiều
thách
thức.
Trong
đó,
quan
trọng
nhất
vẫn
là
thách
thức
đến
từ
các
hợp
đồng
kỳ
hạn
rủi
ro.
Nếu
doanh
nghiệp
chốt
giá
thấp
vào
thời
điểm
ký
hợp
đồng,
trong
khi
giá
nguyên
liệu
đầu
vào
tăng
đột
biến
như
trong
năm
nay,
các
doanh
nghiệp
phải
chịu
giảm
mức
lợi
nhuận
hoặc
thậm
chí
thua
lỗ.
Do
đó,
các
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
không
nên
vội
vã
ký
hợp
đồng
bán
rồi
sau
đó
mới
bắt
đầu
đi
gom
gạo
nguyên
liệu
từ
nông
dân.
Nhìn
chung,
thị
trường
xuất
khẩu
gạo
hiện
vẫn
khá
hấp
dẫn
do
tình
hình
mất
cân
đối
cung
cầu
thế
giới
và
những
chính
sách
hỗ
trợ
từ
nước
xuất
khẩu
gạo
lớn
là
Thái
Lan.
Tuy
nhiên,
môi
trường
cạnh
tranh
giữa
các
công
ty
xuất
khẩu
gạo
Việt
Nam
ngày
một
khó
khăn.
Các
doanh
nghiệp
trong
nước
cần
phải
tập
trung
vào
phát
triển
vùng
nguyên
liệu
để
tăng
hiệu
quả
trong
hoạt
động
sản
xuất
và
đạt
tỷ
suất
lợi
nhuận
cao
hơn,
đồng
thời
xây
dựng
thương
hiệu
gạo
để
tăng
lợi
thế
cạnh
tranh
trên
thị
trường
thế
giới.