Bao
cấp,
bù
chéo
trong
giá
điện
đã
được
nói
đến
từ
nhiều
năm
nay,
nhưng
đó
là
ở
khía
cạnh
chính
sách
xã
hội
mà
Nhà
nước
giao
cho
ngành
điện
thực
hiện,
nhằm
trợ
giá
điện
sinh
hoạt
cho
những
gia
đình
nghèo
và
điện
phục
vụ
cho
tưới
tiêu
trong
nông
nghiệp.
Vì
thế,
hẳn
nhiều
người
sẽ
không
khỏi
ngạc
nhiên
khi
biết
rằng,
ngoài
những
đối
tượng
xã
hội
nêu
trên,
cơ
chế
giá
điện
của
Việt
Nam
hiện
nay
còn
bao
cấp,
bù
chéo
cho
cả
những
đơn
vị
sử
dụng
điện
vào
mục
đích
kinh
doanh.
Trả
lời
chất
vấn
trước
Quốc
hội
vào
tuần
trước,
Bộ
trưởng
Bộ
Tài
chính
Vương
Đình
Huệ
tiết
lộ,
với
mức
tiêu
thụ
gần
10
tỉ
kWh
điện
trong
năm
2010,
ngành
điện
đã
bù
chéo
cho
sản
xuất
thép
và
xi
măng
tới
2.547
tỉ
đồng,
trong
đó
doanh
nghiệp
thép
có
vốn
đầu
tư
nước
ngoài
được
hơn
506
tỉ
đồng.
Có
lẽ
ông
Huệ
dẫn
ra
con
số
trên
là
để
giải
thích
cho
khoản
lỗ
khổng
lồ
lên
đến
hơn
23.000
tỉ
đồng
của
tập
đoàn
Điện
lực
Việt
Nam
(EVN),
nhưng
nó
lại
cho
thấy
bất
cập
lớn
trong
chính
sách
điều
hành
giá
điện
của
Việt
Nam.
Như
chúng
ta
đã
biết,
Việt
Nam
là
một
trong
những
quốc
gia
sử
dụng
điện,
hay
năng
lượng
nói
chung,
kém
hiệu
quả
nhất
trên
thế
giới.
Hệ
số
đàn
hồi
giữa
tốc
độ
tăng
nhu
cầu
điện
và
tốc
độ
tăng
GDP
lên
đến
hai
lần.
Trong
khi
ở
nhiều
quốc
gia
trong
khu
vực
và
trên
thế
giới,
hệ
số
này
chỉ
bằng
1
hoặc
dưới
1.
Với
quyền
điều
hành
giá
điện
trong
tay,
lẽ
ra
Nhà
nước
phải
sử
dụng
nó
như
một
công
cụ
để
khuyến
khích,
thậm
chí
là
gây
sức
ép
lên
doanh
nghiệp,
để
họ
đổi
mới
công
nghệ,
nâng
cao
hiệu
quả
sử
dụng
năng
lượng.
Nhưng
chúng
ta
đã
không
làm
như
vậy.
Thay
vào
đó
là
chính
sách
bù
chéo,
lấy
tiền
của
nhóm
khách
hàng
phải
mua
điện
với
giá
cao
(khối
dịch
vụ)
để
bù
cho
nhóm
giá
thấp,
mà
trong
trường
hợp
này
là
ngành
sản
xuất
thép
và
xi
măng.
Có
thể
nói,
cơ
chế
giá
điện
của
Việt
Nam
hiện
nay,
dù
có
nhiều
thang
bậc
(áp
dụng
với
khách
hàng
sử
dụng
điện
cho
nhu
cầu
sinh
hoạt),
hay
phân
ra
theo
nhóm
khách
hàng
(sản
xuất,
dịch
vụ,
nông
nghiệp),
nhưng
vẫn
nặng
tính
cào
bằng.
Ví
dụ
như
trong
lĩnh
vực
sản
xuất
công
nghiệp,
nhóm
tiêu
thụ
hơn
một
nửa
sản
lượng
điện
của
cả
nước,
bất
kỳ
một
doanh
nghiệp
nào,
dù
sử
dụng
điện
tiết
kiệm
hay
lãng
phí,
có
hiệu
quả
cao
hay
kém
hiệu
quả,
đều
được
áp
dụng
một
giá
bán
điện
như
nhau.
Rõ
ràng,
cơ
chế
này
chẳng
những
không
khuyến
khích
nâng
cao
hiệu
quả
sử
dụng
điện,
mà
còn
gián
tiếp
thúc
đẩy
các
doanh
nghiệp
nhập
về
những
dây
chuyền
thiết
bị
rẻ
tiền,
công
nghệ
lạc
hậu
nhưng
tiêu
tốn
nhiều
điện
năng.
Nó
cũng
tạo
ra
sự
bất
công
giữa
các
nhóm
khách
hàng
của
ngành
điện
và
gây
ra
nhiều
hệ
lụy
rất
xấu
cho
nền
kinh
tế,
như
vấn
đề
bảo
đảm
an
ninh
năng
lượng,
đặt
cả
nền
kinh
tế
vào
cuộc
chạy
đua
đến
kiệt
sức
để
đáp
ứng
nhu
cầu
về
điện.
Điều
đáng
nói
là
dù
ngành
điện
phải
dành
ra
hàng
ngàn
tỉ
đồng
để
bù
chéo,
nhưng
chưa
hẳn
các
doanh
nghiệp
được
bao
cấp
đã
hài
lòng
khi
chất
lượng
điện
cung
cấp
vẫn
kém
và
thiếu
ổn
định
như
hiện
nay.
Hồi
tháng
6
năm
nay,
phản
ứng
về
quan
điểm
của
Bộ
Tài
chính
cho
rằng
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
thép
đang
được
hưởng
lợi
vì
giá
điện
thấp,
nên
phải
tăng
thuế
xuất
khẩu,
Hiệp
hội
Thép
Việt
Nam
đã
chủ
động
đề
nghị
Nhà
nước
cho
ngành
điện
tính
giá
điện
theo
cơ
chế
thị
trường.
Nhiều
năm
qua,
Nhà
nước
đã
nỗ
lực
tuyên
truyền,
vận
động
người
dân
và
doanh
nghiệp
tiết
kiệm,
sử
dụng
năng
lượng
hiệu
quả.
Những
quy
định,
luật
lệ
cũng
đã
được
ban
hành.
Nhưng
kết
quả
vẫn
chưa
đi
đến
đâu.
Đã
đến
lúc
Nhà
nước
thay
đổi
chính
sách
điều
hành
giá
điện
theo
hướng
xóa
bỏ
sự
cào
bằng,
sử
dụng
nó
như
công
cụ
để
khuyến
khích,
gây
sức
ép
để
người
dân
và
doanh
nghiệp
phải
quan
tâm
đến
hiệu
quả
sử
dụng
năng
lượng.
Lẽ
đương
nhiên,
chi
phí
sản
xuất
và
kinh
doanh
điện
của
EVN
cũng
phải
hợp
lý
và
minh
bạch.
Vì
chỉ
có
tiết
kiệm,
nâng
cao
hiệu
quả
sử
dụng
điện
mới
là
giải
pháp
khả
thi
và
kinh
tế
nhất
để
giải
tỏa
áp
lực
lên
vấn
đề
bảo
đảm
nguồn
cung
năng
lượng
cho
nền
kinh
tế.