Lạm
phát
tăng;
rủi
ro
tín
dụng
và
hoạt
động
ngân
hàng;
những
vấn
đề
liên
quan
đến
chính
sách
và
điều
hành
kinh
tế
vĩ
mô
của
Chính
phủ
là
ba
rào
cảnh
đối
với
môi
trường
kinh
doanh
của
Việt
Nam
năm
2011
và
kể
cả
năm
tới.
Bước
vào
năm
2011,
nền
kinh
tế
nước
ta
gặp
rất
nhiều
khó
khăn
và
thách
thức.
Tỷ
lệ
lạm
phát
cao
gây
ra
những
bất
ổn
vĩ
mô
cho
nền
kinh
tế
vào
các
tháng
đầu
năm.
Trước
tình
hình
đó,
Chính
phủ
đã
ra
Nghị
quyết
11
để
kiềm
chế
lạm
phát,
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô
và
đảm
bảo
an
sinh
xã
hội.
Theo
đó,
Ngân
hàng
Nhà
nước
thực
hiện
chính
sách
tiền
tệ
thắt
chặt,
giảm
tốc
độ
tăng
trưởng
cung
tiền,
giảm
tăng
trưởng
tín
dụng,
và
hạn
chế
tín
dụng
cho
các
hoạt
động
kinh
doanh
bất
động
sản,
chứng
khoán.
Các
biện
pháp
này
làm
cho
lãi
suất
tăng
cao,
tác
động
tiêu
cực
lên
khu
vực
doanh
nghiệp,
thị
trường
bất
động
sản
và
thị
trường
chứng
khoán.
Mặc
dù
Chính
phủ
đã
có
những
nỗ
lực
để
kiềm
chế
lạm
phát
và
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô,
môi
trường
kinh
doanh
trong
năm
2011
được
đánh
giá
không
thuận
lợi.
Dưới
đây
sẽ
thể
hiện
môi
trường
kinh
doanh
của
Việt
Nam
năm
2011
dưới
hai
góc
độ:
một
là
từ
cách
nhìn
nhận,
đánh
giá
của
các
tổ
chức
quốc
tế
và
hai
là
từ
đánh
giá
của
các
doanh
nghiệp
trong
nước.
Đánh
giá
từ
nhiều
góc
độ
sẽ
đem
đến
một
cái
nhìn
khách
quan,
toàn
diện
và
nhiều
chiều
về
môi
trường
kinh
doanh
năm
2011
của
nước
ta.
Quốc
tế
đánh
giá:
Thụt
lùi
Môi
trường
kinh
doanh
phần
nào
được
phản
ánh
thông
qua
năng
lực
cạnh
tranh
của
nền
kinh
tế.
Nhiều
chỉ
số
thành
phần
của
chỉ
số
năng
lực
cạnh
tranh
nói
lên
nhiều
điều
về
hiện
trạng
môi
trường
kinh
doanh.
Chỉ
số
năng
lực
cạnh
tranh
của
Việt
Nam
được
Diễn
đàn
Kinh
tế
Thế
giới
(WEF)
đánh
giá
khá
toàn
diện,
nó
bao
gồm
3
chỉ
số
trụ
cột:
chỉ
số
cơ
bản,
chỉ
số
nâng
cao
hiệu
quả,
và
chỉ
số
về
đổi
mới
và
độ
tinh
vi
trong
kinh
doanh.
Các
chỉ
số
trụ
cột
này
lại
bao
gồm
nhiều
chỉ
số
thành
phần.
Chỉ
số
cơ
bản
gồm
có
4
chỉ
số
thành
phần
liên
quan
đến
thể
chế,
cơ
sở
hạ
tầng,
môi
trường
kinh
tế
vĩ
mô
và
giáo
dục
cơ
bản
và
y
tế.
Chỉ
số
nâng
cao
hiệu
quả
gồm
có
6
chỉ
số
thành
phần:
đào
tạo
và
giáo
dục
trình
độ
cao,
hiệu
quả
thị
trường
hàng
hoá,
hiệu
quả
thị
trường
lao
động,
phát
triển
thị
trường
tài
chính,
tính
sẵn
có
về
mặt
công
nghệ,
và
quy
mô
thị
trường.
Chỉ
số
đổi
mới
và
độ
tinh
vi
trong
kinh
doanh
gồm
2
chỉ
số
thành
phần
là
đổi
mới
và
độ
tinh
vi
trong
kinh
doanh.
Năng
lực
cạnh
tranh
của
Việt
Nam
năm
2011
bị
tụt
6
bậc
so
với
năm
2010.
Trong
đó,
chỉ
số
đổi
mới
và
độ
tinh
vi
trong
kinh
doanh
của
nước
ta
tụt
hạng
mạnh
nhất,
đứng
thứ
53
năm
2010
nhưng
lùi
xuống
thứ
75
năm
2011.
Chỉ
số
này
phản
ánh
chất
lượng
của
mạng
lưới
kinh
doanh,
công
nghiệp
hỗ
trợ,
chất
lượng
điều
hành
và
chiến
lược
của
các
doanh
nghiệp,...
Chỉ
số
nâng
cao
hiệu
quả
cũng
sụt
giảm
mạnh:
từ
vị
trí
thứ
57
trong
danh
sách
các
nước
xếp
hạng
xuống
vị
trí
thứ
66.
Đồ
thị
1.
So
sánh
các
chỉ
số
chính
của
năng
lực
cạnh
tranh
quốc
gia.
Nguồn:
WEF
(2011),
The
Global
Competitiveness
Report
2011-2012,
World
Economic
Forum.
Phân
tách
sâu
hơn
nữa
cho
thấy
tụt
hạng
mạnh
nhất
là
ở
chỉ
số
độ
tinh
vi
trong
kinh
doanh
(tụt
23
bậc)
và
đổi
mới
(tụt
17
bậc).
Tiếp
đến
là
chỉ
số
hiệu
quả
thị
trường
lao
động
tụt
16
bậc,
hiệu
quả
thị
trường
hàng
hoá
tụt
15
bậc
và
tính
sẵn
có
về
mặt
công
nghệ
tụt
14
bậc.
Như
vậy,
năng
lực
cạnh
tranh
của
nền
kinh
tế
nước
ta
năm
2011,
một
chỉ
số
phản
ánh
khá
sát
thực
trạng
của
môi
trường
kinh
doanh,
giảm
so
với
các
nước
trên
thế
giới.
Đánh
giá
trực
tiếp
môi
trường
kinh
doanh
của
nước
ta,
theo
đánh
giá
của
Ngân
hàng
Thế
giới
(WB)
và
Tổ
chức
tài
chính
quốc
tế
(IFC)
trong
Báo
cáo
Môi
trường
kinh
doanh
2012:
Kinh
doanh
trong
một
thế
giới
minh
bạch,
Việt
Nam
xếp
thứ
98
trong
tổng
số
183
nền
kinh
tế
năm
2010-2011,
tụt
xuống
8
bậc
so
với
năm
2010
cho
dù
Việt
Nam
đã
có
những
nỗ
lực
trong
việc
cải
thiện
môi
trường
kinh
doanh.
Có
thể
môi
trường
kinh
doanh
của
chúng
ta
tốt
dần
lên
nhưng
đặt
trong
môi
trường
toàn
cầu,
các
nước
khác
cải
thiện
nhanh
hơn
sẽ
làm
cho
chúng
ta
thụt
lùi
so
với
họ.
Đáng
lưu
ý,
hai
chỉ
số
tụt
hạng
mạnh
nhất
là
chỉ
số
nộp
thuế
và
chỉ
số
xử
lý
doanh
nghiệp
mất
khả
năng
thanh
toán.
Như
vậy,
ở
cả
hai
báo
cáo
của
các
tổ
chức
quốc
tế
uy
tín
thì
môi
trường
kinh
doanh
và
năng
lực
cạnh
tranh
của
Việt
Nam
đều
bị
tụt
bậc.
Cho
dù
Việt
Nam
đã
có
nhiều
nỗ
lực
trong
việc
cải
thiện
môi
trường
kinh
doanh
và
năng
lực
cạnh
tranh,
nhưng
các
nước
khác
tiến
triển
tốt
hơn
chúng
ta
nên
Việt
Nam
vẫn
bị
tụt
bậc.
Trong
nước:
Ảm
đạm
Đánh
giá
về
môi
trường
kinh
doanh
năm
2011
dưới
góc
nhìn
của
các
doanh
nghiệp
hàng
đầu
và
các
doanh
nghiệp
tăng
trưởng
nhanh
[1]
Nền
kinh
tế
Việt
Nam
năm
2011
có
tỷ
lệ
lạm
phát
tăng
cao,
lãi
suất
cao,
và
việc
vay
vốn
gặp
rất
nhiều
khó
khăn
nên
số
doanh
nghiệp
đánh
giá
môi
trường
kinh
doanh
năm
2011
ảm
đạm
chiếm
đến
40%,
số
doanh
nghiệp
đánh
giá
môi
trường
kinh
doanh
tạm
được
chiếm
44%
và
chỉ
có
16%
doanh
nghiệp
cho
rằng
môi
trường
kinh
doanh
tốt
lên.
Tuy
nhiên,
khi
được
hỏi
về
triển
vọng
môi
trường
kinh
doanh
năm
2012-2013,
tỷ
lệ
doanh
nghiệp
cho
rằng
môi
trường
sẽ
trở
nên
tốt
hơn
tăng
lên
gấp
đôi
và
chỉ
có
16%
đánh
giá
là
kém
cho
năm
2012-2013.
Xem
xét
đánh
giá
của
các
doanh
nghiệp
cho
hai
mảng
là
lĩnh
vực
quản
lý
Nhà
nước
và
lĩnh
vực
Quản
trị
điều
hành
doanh
nghiệp.
Đối
với
lĩnh
vực
quản
lý
Nhà
nước,
tiếp
cận
thông
tin,
văn
bản
pháp
luật,
kế
hoạch
của
Nhà
nước
liên
quan
đến
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
được
doanh
nghiệp
đánh
giá
là
tốt
và
rất
tốt
chiếm
22%.
Còn
lại,
trong
các
mảng
khác
của
quản
lý
Nhà
nước,
đa
số
các
doanh
nghiệp
đánh
giá
ở
mức
trung
bình
mà
đáng
chú
ý
nhất
là
lĩnh
vực
quản
lý
kinh
tế
vĩ
mô
(kiềm
chế
lạm
phát,
điều
hành
tỷ
giá):
có
đến
44,5%
doanh
nghiệp
đánh
giá
kém
và
rất
kém.
Xét
từ
khía
cạnh
quản
trị
và
điều
hành
doanh
nghiệp,
tỷ
lệ
doanh
nghiệp
đánh
giá
khả
năng
tiếp
cận
vốn,
khả
năng
tiếp
cận
ngoại
tệ,
và
tiếp
cận
đất
đai
gặp
rất
nhiều
khó
khăn.
Điều
này
phản
ánh
bức
tranh
kinh
tế
của
Việt
Nam
trong
năm
2011,
nhất
là
liên
quan
đến
lãi
suất
và
ngoại
tệ.
Thứ
nhất,
về
lạm
phát,
do
tỷ
lệ
lạm
phát
tăng
cao
vào
các
tháng
đầu
năm
2011,
Chính
phủ
đã
ra
Nghị
quyết
11
với
chính
sách
tiền
tệ
thắt
chặt,
tốc
độ
tăng
tín
dụng
giảm
và
tín
dụng
cho
vay
bất
động
sản
hạn
chế,
do
đó
không
chỉ
lãi
suất
tăng
cao
mà
việc
tiếp
cận
đến
tín
dụng
cũng
hạn
chế
làm
cho
doanh
nghiệp
gặp
khó
khăn
trong
việc
tiếp
cận
đến
vốn.
Thứ
hai,
cũng
trong
năm
2011,
thị
trường
ngoại
hối
có
rất
nhiều
biến
động
và
đã
có
những
thời
điểm
Ngân
hàng
Nhà
nước
sử
dụng
biện
pháp
hành
chính
nhằm
dẹp
bỏ
hoặc
hạn
chế
hoạt
động
của
thị
trường
chợ
đen.
Với
lượng
ngoại
tệ
có
hạn,
cộng
với
tỷ
giá
chính
thức
thấp
hơn
tỷ
giá
trên
thị
trường
tự
do,
và
việc
kiểm
soát
chặt
chẽ
hoạt
động
giao
dịch
ngoại
tệ
trên
thị
trường
tự
do
đã
làm
cho
việc
tiếp
cận
đến
ngoại
tệ
của
các
doanh
nghiệp
gặp
khó
khăn.
Thủ
tục
hành
chính
là
một
trong
những
lĩnh
vực
mà
tỷ
lệ
doanh
nghiệp
đánh
giá
kém
trong
mức
độ
cải
thiện
còn
cao
(37,8%)
và
chỉ
có
17,8%
doanh
nghiệp
đánh
giá
tốt.
Đối
với
các
đánh
giá
về
cải
thiện
hạ
tầng
vận
tải;
giảm
các
rào
cản
gia
nhập
thị
trường;
xây
mới
và
cải
cách
thế
chế,
luật
theo
hướng
có
lợi
hơn
cho
doanh
nghiệp;
tiếp
cận
tài
chính
dễ
dàng
hơn;
nâng
cao
tính
minh
bạch
về
số
liệu
thống
kê;
và
thực
thi
pháp
luật
tốt
hơn
thì
có
nhiều
doanh
nghiệp
đánh
giá
mức
độ
cải
cách
trong
năm
2011
rất
kém.
Từ
thực
trạng
của
nền
kinh
tế
năm
2011,
phần
lớn
các
doanh
nghiệp
đều
nhất
trí
rằng
ba
rào
cản/rủi
ro
chính
đối
với
tăng
trưởng
kinh
tế
nói
chung
và
môi
trường
kinh
doanh
ở
Việt
Nam
nói
riêng
trong
năm
2011
là
lạm
phát
tăng
(chiếm
tỷ
lệ
32%
số
doanh
nghiệp
tham
gia
điều
tra);
rủi
ro
tín
dụng
và
hoạt
động
ngân
hàng
(13%);
và
những
vấn
đề
liên
quan
đến
chính
sách
và
điều
hành
kinh
tế
vĩ
mô
của
Chính
phủ
(chiếm
tỷ
lệ
18%).
Đây
đồng
thời
cũng
là
ba
rào
cản
được
doanh
nghiệp
dự
đoán
là
những
rào
cản
chính
trong
năm
2012
với
các
tỷ
lệ
tương
ứng
là
28%,
13%
và
23%.
Để
vượt
qua
những
khó
khăn,
thách
thức
và
tận
dụng
triệt
để
những
cơ
hội
trong
giai
đoạn
bất
ổn,
cùng
với
sự
nỗ
lực
của
bản
thân
doanh
nghiệp,
sự
hỗ
trợ
của
Chính
phủ
là
hết
sức
cần
thiết.
Hầu
hết
các
doanh
nghiệp
đều
cho
rằng,
Chính
phủ
cần
tái
khẳng
định
mạnh
mẽ
thông
điệp
và
tinh
thần
của
NQ11
và
Kết
luận
02
của
Bộ
Chính
trị
về
tập
trung
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô,
tạo
nền
tảng
cần
thiết
cho
sự
phát
triển
và
vươn
lên
trong
các
năm
tiếp
theo
bên
cạnh
những
khuyến
nghị
về
các
vấn
đề
như
ngăn
chặn
và
kiểm
soát
tham
nhũng,
tiếp
tục
cải
cách
hành
chính,
bãi
bỏ
các
giấy
phép,
quy
định
và
thủ
tục
không
cần
thiết
và
nhất
quán
cũng
như
tiếp
tục
cải
thiện
và
nâng
cấp
cơ
sở
hạ
tầng.
Lạc
quan
vào
môi
trường
kinh
doanh
2011
được
đánh
giá
là
năm
khó
khăn
đối
với
nền
kinh
tế
nói
chung
và
đối
với
khối
doanh
nghiệp
nói
riêng.
Tỷ
lệ
lạm
phát
tăng
cao,
lãi
suất
tăng
cao
và
thị
trường
ngoại
hối
bấp
bênh
làm
tăng
chi
phí
sản
xuất,
tạo
khó
khăn
cho
doanh
nghiệp
khi
tiếp
cận
vay
vốn
bằng
cả
nội
tệ
và
ngoại
tệ.
Đây
là
các
vấn
đề
nảy
sinh
trong
năm
2011.
Cũng
còn
có
rất
nhiều
vấn
đề
khác
tồn
đọng
từ
lâu
trong
nền
kinh
tế
và
làm
cản
trở
đến
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
như
thủ
tục
hành
chính,
chất
lượng
cơ
sở
hạ
tầng,
công
nghiệp
hỗ
trợ,...
Theo
đánh
giá
của
các
tổ
chức
uy
tín
quốc
tế
như
WEF,
WB,
và
IFC
trong
việc
so
sánh
năng
lực
cạnh
tranh
và
môi
trường
kinh
doanh
của
Việt
Nam
năm
2011
với
các
nước
trên
thế
giới,
Việt
Nam
tụt
6
bậc
trong
đánh
giá
năng
lực
cạnh
tranh
và
tụt
8
bậc
trong
đánh
giá
môi
trường
kinh
doanh.
Còn
theo
đánh
giá
của
các
doanh
nghiệp
hàng
đầu
và
tăng
trưởng
nhanh
trong
nước,
môi
trường
kinh
doanh
năm
2011
không
có
nhiều
thuận
lợi
do
một
loạt
các
yếu
tố
kể
trên.
Tuy
nhiên,
tỷ
lệ
các
doanh
nghiệp
lạc
quan
vào
môi
trường
kinh
doanh
trong
tương
lai
2012-2013
tăng
lên
đáng
kể,
nhưng
với
các
điều
kiện
kèm
theo
cho
các
quyết
sách
của
Chính
phủ:
đó
là
kiên
trì
thực
hiện
Nghị
quyết
11
của
Chính
phủ
và
Kết
luận
02
của
Bộ
Chính
trị.
Ngày
29/11/2011,
Công
ty
CP
Báo
cáo
Đánh
giá
Việt
Nam
phối
hợp
với
Báo
VietnamNet
sẽ
chính
thức
công
bố
Bảng
xếp
hạng
VNR500
-
Top500
Doanh
nghiệp
lớn
nhất
Việt
Nam
năm
2011
và
thông
báo
lịch
trình
tổ
chức
Buổi
Lễ
tôn
vinh
cùng
Diễn
đàn
VNR500
năm
2012
với
chủ
đề:
Tầm
nhìn
chiến
lược:
Doanh
nghiệp
lớn
và
thách
thức
toàn
cầu,
sẽ
diễn
ra
vào
ngày
13/1/2012
tại
dinh
Thống
Nhất,
TP.HCM.
Đây
là
năm
thứ
5
liên
tiếp,
Bảng
xếp
hạng
VNR500
được
công
bố
để
vinh
danh
những
doanh
nghiệp
có
đóng
góp
lớn
cho
sự
phát
triển
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam
trong
năm
qua. |
(1).
Dựa
trên
khảo
sát
đánh
giá
của
250
doanh
nghiệp
trong
số
500
doanh
nghiệp
có
doanh
thu
lớn
nhất
và
trong
số
500
doanh
nghiệp
có
tốc
độ
tăng
trưởng
nhanh
nhất
theo
bảng
xếp
hạng
VNR500
và
FAST500
của
Công
ty
Cổ
phần
Báo
cáo
Đánh
giá
Việt
Nam.