Đừng
lặp
lại
sai
lầm
của
lịch
sử!
Chủ
nhật
-
11/12/2011
09:15
Nếu
quá
vội
vàng
thắt
chặt
chính
sách
tài
khóa,
tiền
tệ,
lãnh
đạo
các
nền
kinh
tế
giàu
có
nhất
thế
giới
sẽ
đẩy
kinh
tế
thế
giới
vào
Đại
Khủng
hoảng
lần
2.
Năm
2008,
thế
giới
tránh
được
đợt
Đại
Khủng
hoảng
lần
2
do
tránh
được
sai
lầm
từng
dẫn
đến
Đại
Khủng
hoảng
lần
1.
Tuy
nhiên,
châu
Âu
và
Mỹ
còn
rất
nhiều
bài
học
cần
phải
ghi
nhớ.
Trong
ngày
sinh
nhật
lần
thứ
90
của
Milton
Freidman,
kinh
tế
gia
đạt
giải
Nobel,
vào
năm
2002,
Ben
Bernanke
đã
nói
với
Friedman:
“Ông
nói
đúng,
chính
chúng
tôi
đã
gây
ra
nó.”
Chủ
tịch
Fed
khi
đó
đang
nói
đến
kết
luận
của
Milton
rằng
chính
người
đứng
đầu
các
Ngân
hàng
Trung
ương
trên
thế
giới
chịu
trách
nhiệm
cho
những
gì
xảy
ra
trong
thời
kỳ
Đại
Khủng
hoảng.
Ben
Bernanke
nói
thêm:
“Thế
nhưng
cũng
nhờ
có
ông,
chúng
tôi
sẽ
không
bao
giờ
mắc
phải
sai
lầm
của
lịch
sử.”
9
năm
sau
đó,
người
đồng
cấp
của
ngài
Bernanke
đang
vui
mừng
vì
đã
làm
được
điều
tương
tự:
“Chúng
ta
đã
ngăn
được
Đại
Suy
thoái.”
Cú
sốc
đối
với
kinh
tế
thế
giới
năm
2008
giống
như
cái
đã
gây
ra
Đại
Suy
thoái
lần
1.
12
tháng
sau
khi
hoạt
động
kinh
tế
lên
mức
đỉnh
cao
vào
năm
2008,
hoạt
động
sản
xuất
công
nghiệp
sụt
giảm
với
tốc
độ
tương
đương
như
năm
đầu
của
Đại
Khủng
hoảng.
Giá
cổ
phiếu
và
thương
mại
toàn
cầu
sụt
giảm
mạnh.
Dù
vậy
lần
này
không
có
Đại
Khủng
hoảng
nào.
Từ
mức
đỉnh
xuống
mức
đáy,
sản
lượng
công
nghiệp
giảm
khoảng
13%
trong
khi
đó
tỷ
lệ
này
vào
thập
niên
1930
lên
tới
40%.
Tỷ
lệ
thất
nghiệp
tại
Mỹ
và
châu
Âu
lên
mức
khoảng
10%
trong
cuộc
khủng
hoảng
gần
đây,
nhưng
trong
thập
niên
1930
tỷ
lệ
thất
nghiệp
lên
tới
25%.
Khác
biệt
này
có
được
nhờ
các
nhà
hoạch
định
chính
sách
đã
học
được
rất
nhiều
sai
lầm
từ
Đại
Suy
thoái
năm
1930.
Nhiều
chuyên
gia
kinh
tế
vẫn
tiếp
tục
tranh
cãi
nhau
về
việc
yếu
tố
nào
đã
khiến
Đại
Suy
thoái
kéo
dài
và
gây
ra
hậu
quả
tồi
tệ
đến
như
vậy?
Một
số
chuyên
gia
kinh
tế
nhấn
mạnh
đến
yếu
tố
cấu
trúc
như
chi
phí
lao
động.
Bà
Amity
Shlaes,
nhà
kinh
tế
sử
học,
cho
rằng
chính
sự
can
thiệp
của
chính
phủ
đã
gây
ra
Đại
Khủng
hoảng.
Bà
nhấn
mạnh
đến
việc
cựu
Tổng
thống
Mỹ
Franklin
Roosevelt
đã
trừng
phạt
những
người
nông
dân
bởi
họ
đã
bán
gà
quá
rẻ.
Các
chuyên
gia
kinh
tế
còn
chia
sẻ
quan
điểm
rằng
chính
các
biện
pháp
thắt
chặt
tài
khóa
và
tiền
tệ
đã
khiến
tình
hình
vốn
đã
xấu
lại
càng
trở
nên
tồi
tệ
hơn.
Lần
này,
chính
phủ
các
nước
không
mắc
sai
lầm
nào
như
vậy.
Thập
niên
1930,
chính
phủ
và
Ngân
hàng
Trung
ương
các
nước
đua
nâng
lãi
suất,
sau
thời
kỳ
chấn
động
năm
2008,
các
nhà
hoạch
định
chính
sách
đồng
thuận
đưa
ra
chính
sách
nới
lỏng.
Sau
Đại
Khủng
hoảng
1930,
cộng
đồng
quốc
tế
trở
nên
thiếu
hợp
tác,
chiến
tranh
tiền
tệ
và
cuộc
chiến
bảo
hộ
bùng
phát;
ngược
lại
đến
năm
2008
và
2009
lãnh
đạo
các
nền
kinh
tế
thế
giới
khá
đoàn
kết.
Thống
đốc
Ngân
hàng
Trung
ương
Anh
cũng
đã
có
quan
điểm
đúng
đắn.
Khi
xem
xét
kỹ
hơn,
bức
tranh
không
mấy
ấn
tượng
như
vậy.
Trong
2
lĩnh
vực
quan
trọng,
chính
phủ
nhóm
nước
giàu
sẽ
có
thể
vẫn
mắc
phải
2
sai
lầm
của
thập
niên
1930.
Thế
giới
các
nước
giàu
có
thể
lặp
lại
chính
sách
thắt
chặt
tài
khóa
đã
đẩy
nước
Mỹ
vào
suy
thoái
kinh
tế
trong
Đại
Khủng
hoảng
1937
–
1938.
Cuộc
khủng
hoảng
tại
châu
Âu
rất
giống
biến
động
tài
chính
tiêu
cực
cuối
thập
niên
1920
và
đầu
1930,
khi
đó
các
nền
kinh
tế
liên
tiếp
sụp
đổ
như
chuỗi
domino
do
chịu
áp
lực
từ
các
biện
pháp
thắt
chặt
ngân
sách,
tiền
tệ
thắt
chặt
và
thiếu
ngân
hàng
đứng
ra
làm
bên
cho
vay
cuối
cùng.
Tất
cả
cùng
đi
xuống
Những
năm
2000,
việc
kích
thích
kinh
tế
dễ
dàng
hơn
nhiều
so
với
thập
niên
1930.
Chế
độ
an
sinh
xã
hội,
được
đưa
ra
sau
thời
kỳ
Đại
Khủng
hoảng,
đồng
nghĩa
với
việc
người
thất
nghiệp
hiện
nay
vẫn
có
tiền
để
chi
tiêu,
như
vậy
kinh
tế
có
được
thêm
một
yếu
tố
đảm
bảo
ngăn
suy
thoái
mà
chính
phủ
không
cần
phải
can
thiệp
quá
mạnh
tay.
Gói
chi
tiêu
công,
giảm
thuế
mà
cựu
Tổng
thống
Mỹ
Herbert
Hoover
đưa
ra
sau
khi
thị
trường
chấn
động
năm
1929
có
quy
mô
chưa
đầy
0,5%
GDP.
Gói
kích
cầu
của
Tổng
thống
Obama
trong
năm
2009
và
2010
tương
đương
đến
2-3%
GDP.
Cựu
Tổng
thống
Roosevelt
nâng
chi
tiêu
lên
mức
tương
đương
10,7%
GDP
vào
năm
1934,
ở
thời
điểm
này
kinh
tế
Mỹ
đã
đang
tăng
trưởng
mạnh.
Đến
năm
1936,
GDP
Mỹ
sau
khi
điều
chỉnh
với
lạm
phát
đã
trở
lại
mức
của
năm
1929.
Việc
gói
chi
tiêu
đã
giúp
kinh
tế
phục
hồi
đến
đâu
hiện
vẫn
còn
đang
bị
tranh
cãi.
Chuyên
gia
kinh
tế
như
John
Cochrane
thuộc
đại
học
University
of
Chicago
và
Robert
Barro
thuộc
đại
học
Harvard
khẳng
định
nó
chẳng
mang
đến
chút
tác
dụng
nào.
Họ
tuyên
bố
các
chương
trình
kích
thích
tài
khóa
không
bao
giờ
phát
huy
tác
dụng.
Những
ai
tin
rằng
các
biện
pháp
tài
khóa
phát
huy
tác
dụng
tuy
nhiên
thường
có
xu
thế
nghĩ
rằng
vào
thập
niên
1930,
chính
sách
chi
tiêu
kém
quan
trọng
hơn
chính
sách
tiền
tệ,
cái
mà
họ
coi
như
nguyên
nhân
chính
của
mọi
vấn
đề.
Trong
một
nghiên
cứu
công
bố
năm
1989,
ông
Bernanke
và
Martin
Parkinson,
hiện
đang
là
quan
chức
cao
cấp
tại
Bộ
Tài
chính
Úc
khẳng
định
thay
cho
việc
thực
sự
giúp
kinh
tế
phục
hồi,
chương
trình
chi
tiêu
“New
Deal”
có
thể
coi
như
dọn
đường
cho
sự
phục
hồi
thực
của
nền
kinh
tế.
Một
số
chuyên
gia
kinh
tế
khác
như
Paul
Krugman
lại
muốn
nói
nhiều
hơn
đến
gói
chi
tiêu
kích
cầu.
Cho
đến
khi
nợ
công
lên
mức
40%
GDP
(cao
so
với
thời
điểm
lúc
bấy
giờ)
thế
nhưng
chỉ
tương
đương
một
nửa
so
với
Đức
hiện
nay,
Quốc
hội
Mỹ
giảm
mạnh
chi
tiêu,
tăng
thuế
và
hạ
được
thâm
hụt
tương
đương
5,5%
GDP
trong
khoảng
thời
gian
từ
năm
1936
đến
năm
1938,
dù
vậy
con
số
này
vẫn
còn
lớn
hơn
so
với
mục
tiêu
của
Hy
Lạp
trong
2
năm
sắp
tới.
Cùng
lúc
đó,
Fed
tăng
gấp
đôi
tỷ
lệ
dự
trữ
bắt
buộc
(từ
giữa
năm
1937
đến
giữa
năm
1938),
khuyến
khích
các
ngân
hàng
rút
tiền
ra
khỏi
nền
kinh
tế.
Bộ
Tài
chính
Mỹ
bắt
đầu
hạn
chế
nguồn
cung
tiền
và
hoạt
động
nhập
khẩu
vàng.
Trong
năm
1937
và
1938,
suy
thoái
khiến
GDP
thực
giảm
11%
và
thất
nghiệp
tăng
thêm
4%
lên
mức
cao
nhất
khoảng
từ
13%
đến
19%
theo
cách
tính
riêng
của
từng
người.
Hiện
nay,
chính
sách
tiền
tệ
chưa
đến
giai
đoạn
đảo
ngược
giống
như
nước
Mỹ
thập
niên
1930.ECB
dự
kiến
sẽ
tiếp
tục
hạ
lãi
suất
cơ
bản
đồng
euro.
Thế
nhưng
tại
nhiều
khu
vực
trên
thế
giới,
chính
sách
tài
khóa
đang
chuyển
biến
theo
hướng
đó.
Gói
kích
thích
của
Tổng
thống
Obama
đang
có
thu
hẹp
dần,
chính
quyền
các
bang
đang
giảm
bớt
chi
tiêu.
Các
ứng
viên
của
Đảng
Cộng
hòa
đang
có
ý
định
tranh
cử
Tổng
thống
năm
2012
liên
tục
tuyên
bố
rằng
chương
trình
chi
tiêu
của
chính
phủ
chẳng
mang
đến
tác
dụng
gì
ngoại
trừ
khiến
gánh
nặng
nợ
nần
của
thế
hệ
tương
lai
tăng
cao
hơn.
Tổng
thống
Obama
đã
nói
đến
giảm
chi
tiêu.
Nếu
chương
trình
giảm
thuế
và
hỗ
trợ
thất
nghiệp
khẩn
cấp
không
còn
được
duy
trì,
tăng
trưởng
kinh
tế
trong
năm
2012
sẽ
đi
xuống.
Câu
chuyện
không
chỉ
của
riêng
nước
Mỹ.
Dưới
thời
của
David
Cameron,
chính
phủ
Anh
đang
nợ
nần
cũng
đưa
ra
chương
trình
thắt
chặt
tài
khóa
mạnh
tay
nhằm
ngăn
niềm
tin
vào
tín
nhiệm
tín
dụng
của
nước
này
sụp
đổ.
Nó
cũng
giống
như
khi
cựu
Bộ
trưởng
Tài
chính
Snowden
đưa
ra
chính
sách
thắt
chặt
ngân
sách
vào
năm
1931
bằng
biện
pháp
tăng
thuế
và
giảm
chi
tiêu.
Khi
đó,
niềm
tin
không
được
phục
hồi
và
người
Anh
buộc
phải
hạ
giá
đồng
bảng,
bỏ
chế
độ
bản
vị
vàng.
Lần
này,
chính
phủ
Anh
đã
giúp
khôi
phục
được
niềm
tin
của
nhà
đầu
tư
và
giảm
lợi
suất
trái
phiếu
chính
phủ
nhưng
lại
đối
đầu
với
khả
năng
suy
thoái
kinh
tế
lần
2
do
chịu
tác
động
từ
nhiều
vấn
đề
tại
khu
vực
đồng
tiền
chung
châu
Âu.
Vì
vậy,
khả
năng
cú
sốc
xảy
đến
khi
chính
phủ
áp
dụng
biện
pháp
thắt
chặt
tài
khóa
cần
phải
được
tính
toán
kỹ
càng.
Ngọc
Diệp
Nguồn
tin:
TTVN