|
Vải
đổ
về
các
điểm
mua
ở
phố
Kim
(Lục
Ngạn). |
Vải
thiều
Lục
Ngạn
(Bắc
Giang)
đang
vào
chính
vụ
và
năm
nay
được
mùa.
Nhưng
chính
quyền
huyện
cũng
như
người
trồng
vải
lại
lo
vì
đầu
ra
quả
vải
bị
phụ
thuộc
quá
nhiều
vào
thị
trường
Trung
Quốc.
Những
ngày
trung
tuần
tháng
7
này,
cả
trời
Bắc
Giang,
đặc
biệt
vùng
Lục
Ngạn,
rực
đỏ
một
màu
vải
thiều.
Vải
chín
đỏ
từ
các
sườn
đồi,
các
vườn
vải,
đỏ
từ
sân
nhà
ra
ngoài
ngõ,
rực
khắp
các
ngả
đường
ra
đến
chợ.
Giá
vải
giảm
chỉ
còn
khoảng
5.000
đồng/kg.
Chẳng
được
là
bao
Chở
một
sọt
vải
kềnh
càng
đi
6-7km
về
chợ
vải
phố
Kim
(xã
Phượng
Sơn),
sau
khi
cân
bán
cho
điểm
mua
Đoàn
Tú,
nhận
mấy
trăm
ngàn
đồng
ướt
nhoẹt
mồ
hôi,
ông
Hà
Gia
Phú
(xã
Đông
Hưng)
ngao
ngán:
“Hơn
tạ
vải
chỉ
được
600.000
đồng.
Được
từng
này
tiền
nhưng
vất
vả
lắm,
bao
công
sức
chăm
bẵm,
thu
hái,
phân
loại”.
Gạt
những
giọt
mồ
hôi
nhễ
nhại
trên
khuôn
mặt
sau
bốn
chuyến
chở
vải
ra
phố
Kim
bán,
chị
Lê
Thị
Liễu
(thôn
Chể,
xã
Phượng
Sơn,
huyện
Lục
Ngạn)
thở
dài:
“Năm
ngoái
bán
xô
tại
vườn
cũng
được
13.000
đồng/kg,
năm
nay
phải
tự
bẻ
mang
ra
tận
điểm
cân
mà
cũng
chỉ
được
5.000
đồng/kg”.
Trong
khi
đó,
giá
trà
đá
có
lúc
là
2.500
đồng/ly.
Theo
ông
Hà
Gia
Phú,
với
hơn
100
gốc
vải
dự
kiến
thu
cỡ
10
tấn,
giá
bán
bình
quân
6.000-7.000
đồng/kg,
dự
kiến
năm
nay
nhà
ông
thu
khoảng
65-70
triệu
đồng,
trừ
tiền
phân
bón,
thuốc
trừ
sâu
7
triệu,
tiền
công
cũng
cỡ
7
triệu
đồng,
rồi
tiền
nuôi
thợ
thì
cả
nhà
“lãi”
khoảng
45
triệu
đồng.
Số
tiền
này
khá
lớn
so
với
cuộc
sống
của
người
dân
vùng
trung
du,
miền
núi
như
Lục
Ngạn.
Nhưng
nếu
tính
cả
năm
mà
cả
nhà
4-5
nhân
khẩu
chỉ
trông
chờ
vào
vải
như
thế
thì
cũng
chẳng
được
là
bao.
Dù
sao
bán
được
giá
như
ông
Phú
cũng
là
may
vì
vải
của
ông
thuộc
loại
khá
đẹp,
quả
đỏ
đều,
căng
mọng,
không
chấm
(vết
sâu
bệnh),
còn
khá
nhiều
nông
dân
khác
chỉ
bán
được
giá
3.500-5.000
đồng/kg.
Để
cứu
vãn
mùa
vải
của
mình,
anh
Phạm
Văn
Tư
(thôn
Ngọt,
xã
Hồng
Giang)
quyết
định
xây
lò
sấy,
thuê
bốn
thợ
hái
đại
trà
(hái
cây
nào
hết
cây
đấy,
không
hái
chọn)
để
tự
sấy
rồi
xuất
bán
sang
Trung
Quốc.
Và
để
mỗi
ngày
đủ
một
mẻ
sấy
khoảng
3
tấn
vải,
anh
còn
lập
điểm
mua
vải
ngay
tại
nhà,
thuê
thêm
năm
thợ
sấy
vải
(200.000
đồng/người/ngày,
chưa
kể
nuôi
ăn
ba
bữa).
Theo
anh
Tư,
nếu
giá
vải
tươi
mua
3.000-4.000
đồng/kg
thì
một
mẻ
lò
3
tấn
vải
cũng
“nướng”
cỡ
11-12
triệu
đồng.
Nhưng
bù
lại,
giá
1kg
vải
khô
khi
xuất
bán
tại
Đồng
Đăng
được
cỡ
8-10
tệ/kg
(1
tệ
Trung
Quốc
bằng
gần
3.200
đồng).
Một
mẻ
lò/ngày
được
gần
1
tấn
vải
khô,
thu
25-30
triệu
đồng.
Trừ
mọi
chi
phí
cũng
thu
hơn
bán
vải
tươi.
Vải
đổ
về
các
điểm
mua
ở
phố
Kim
(Lục
Ngạn).
Phụ
thuộc
vào...
Trung
Quốc
Ông
Chu
Văn
Báo,
trưởng
Phòng
nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn
huyện
Lục
Ngạn,
cho
biết
vải
Lục
Ngạn
phụ
thuộc
quá
nhiều
vào
thị
trường
Trung
Quốc.
Vụ
vải
năm
2010
mất
mùa
nên
sản
lượng
cả
huyện
chỉ
60.000
tấn,
nhưng
có
đến
30.000-40.000
tấn
được
các
thương
nhân
Trung
Quốc
mua.
Năm
nay
sản
lượng
tăng
gần
gấp
đôi
năm
ngoái,
có
thể
đạt
100.000
tấn,
ông
Báo
cho
biết
tư
thương
Trung
Quốc
phải
tiêu
thụ
đến
60%
và
họ
chỉ
mua
loại
vải
ngon
nhất,
đẹp
nhất.
Trong
100.000
tấn
thì
khoảng
20%
là
vải
loại
1,
50%
vải
loại
2,
khoảng
25%
vải
loại
3
và
còn
lại
là
loại
“vải
rừng”
(xấu
nhất).
Đã
là
vải
thiều
trồng
trên
đất
Lục
Ngạn
thì
đều
ngon,
ngọt,
mọng
nước,
róc
hạt.
Việc
phân
loại
chỉ
căn
cứ
vào
vải
trồng
theo
quy
trình
Viet
GAP
(tiêu
chuẩn
VN
về
chất
lượng,
an
toàn
và
truy
nguyên
được
nguồn
gốc)
hay
không
và
phụ
thuộc
vào
hình
dáng,
mẫu
mã
bên
ngoài.
Tư
thương
Trung
Quốc
thường
sẽ
mua
toàn
bộ
vải
loại
1
và
70-80%
số
vải
loại
2
bằng
mọi
cách,
kể
cả
nâng
giá
để
mua.
Số
vải
loại
2,
loại
3
còn
lại
các
tư
thương
mua
đưa
vào
miền
Trung,
miền
Nam
và
các
tỉnh
lân
cận.
Ông
Tăng
Đức
Hậu,
đội
phó
Đội
quản
lý
thị
trường
số
3
Lục
Ngạn,
cho
biết
năm
nay
lượng
tư
thương
Trung
Quốc
sang
tận
nơi
mua
vải
nhiều
hơn
năm
ngoái,
ít
nhất
đến
lúc
này
cũng
có
đến
khoảng
30
thương
nhân
ở
hẳn
Lục
Ngạn
để
mua
hàng.
Tại
chợ,
A
Tùng
một
tư
thương
từ
Bằng
Tường
(Trung
Quốc)
-
cho
biết
đã
sang
VN
làm
ăn
hơn
10
năm
nay
và
có
ba
mùa
vải
liên
tiếp
trực
tiếp
đến
Lục
Ngạn
mua
vải.
Có
lẽ
vì
thế
mà
A
Tùng
nói
tiếng
Việt
khá
rành
và
biết
được
cả
tâm
lý
người
trồng
vải.
Theo
A
Tùng,
vì
đã
sang
tận
nơi
để
mua
vải
về
bán
ở
Bắc
Kinh,
Chiết
Giang,
Phúc
Kiến
nên
phải
mua
vải
thật
đẹp,
thật
ngon.
Bà
Hải
Bích,
một
người
đứng
ra
mua
vải
cho
tư
thương
Trung
Quốc,
cho
biết
mỗi
ngày
bà
mua
khoảng
30-35
tấn,
đủ
đóng
hai
container.
Vải
thì
cùng
một
loại
(chỉ
loại
1)
nhưng
không
phải
cùng
một
giá.
“Giá
vải
mình
không
quyết
định
mà
do
chính
người
Trung
Quốc
đứng
ra
mặc
cả
với
nông
dân”
-
bà
Bích
nói.
“Bửu
bối”
giúp
nông
dân
bán
được
giá
cao
Ông
Nguyễn
Như
Tiệp,
cục
trưởng
Cục
Quản
lý
chất
lượng
nông
lâm
sản
và
thủy
sản
(Bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn),
cho
rằng
sản
xuất
nông
nghiệp
khó
có
thể
tránh
được
quy
luật
cung
-
cầu
của
thị
trường,
nên
khi
cung
lớn
mà
cầu
không
biến
động
chắc
chắn
sẽ
xảy
ra
tình
trạng
“được
mùa
rớt
giá”.
“Vải
thiều
hay
bất
cứ
loại
nông
sản
nào
nếu
thực
hiện
sản
xuất
theo
quy
trình,
tiêu
chuẩn
Viet
GAP
thì
sản
phẩm
bao
giờ
cũng
được
đảm
bảo
chất
lượng,
giá
lại
cao”
-
ông
Tiệp
khẳng
định.
Theo
ông
Tiệp,
Lục
Ngạn
có
gần
20.000ha
trồng
vải
thiều
nhưng
mới
có
khoảng
6.000ha
thực
hiện
trồng
theo
quy
trình
Viet
GAP.
Qua
kiểm
tra
thực
tế
giá
vải
Viet
GAP
luôn
cao
hơn
và
bán
rất
chạy.
Ngược
lại,
không
theo
quy
trình
này
giá
rất
thấp
và
phụ
thuộc
hoàn
toàn
vào
người
mua.
“Nếu
thực
hiện
đúng
thì
Viet
GAP
chính
là
bửu
bối
giúp
nông
dân
yên
tâm
sản
xuất,
trồng
trọt”
-
ông
Tiệp
nói.
Việt
Nam
và
Trung
Quốc
đã
có
thỏa
thuận
hợp
tác,
vì
thế
hàng
nông
sản
xuất
nhập
khẩu
theo
đường
chính
ngạch
cần
phải
có
bao
bì
ghi
rõ
nguồn
gốc
xuất
xứ.
Muốn
vậy,
phải
sản
xuất
theo
tiêu
chuẩn
Viet
GAP
mới
đảm
bảo
xuất
khẩu.
Còn
với
hầu
hết
vải
thiều
hay
bất
cứ
mặt
hàng
nông
sản
nào
khác
không
có
bao
bì,
nhãn
mác
ghi
rõ
nguồn
gốc
xuất
xứ
thì
phải
chấp
nhận
bán
ngoài
thị
trường. |
Theo
Đức
Bình
-
Thân
Hoàng
(Tuổi
trẻ)