Gần
đây,
nông
dân
Việt
Nam
ngậm
"trái
đắng"
do
họ
hoàn
toàn
phụ
thuộc
và
chạy
theo
nhu
cầu
từ
thương
nhân
Trung
Quốc.
Tuy
nhiên,
người
chịu
trách
nhiệm
chính
không
phải
là
họ,
bởi
người
nông
dân
nào
chẳng
muốn
nuôi
trồng
những
thứ
mang
lại
thu
nhập
cao.
Giá
khoai
lang
tím
ở
Vĩnh
Long
chủ
yếu
để
xuất
sang
Trung
Quốc
nay
đã
giảm
phân
nửa,
từ
820.000
hồi
tháng
4/2011
xuống
còn
440.000
đồng/tạ.
Nông
dân
ở
các
huyện
Bình
Tân,
Bình
Minh
tỉnh
Vĩnh
Long
đang
rất
lo
lắng
vì
tại
đây
vẫn
còn
rất
nhiều
diện
tích
khoai
lang
chưa
thu
hoạch.
Thế
là
những
lo
lắng
về
tính
ổn
định
của
thị
trường
Trung
Quốc
mà
nhiều
người
đã
lên
tiếng
trước
đây
là
hoàn
toàn
đúng.
Còn
nhớ,
những
năm
2007-2008,
thương
nhân
Trung
Quốc
ồ
ạt
mua
cau
sấy
với
giá
80.000
đồng/kg,
nhưng
đến
năm
2009-2010
thì
họ
lại
mua
nhỏ
giọt
và
sau
đó
thì
ngừng
mua
hẳn.
Tương
tự,
cuối
năm
2010
-
đầu
năm
2011,
nhu
cầu
mua
đỉa
từ
Trung
Quốc
cũng
rộ
lên
với
giá
cao
ngất
ngưởng
là
2
triệu
đồng/kg.
Nhưng
đến
nay
thì
mặt
hàng
này
đã
hoàn
toàn
không
còn
"hot"
như
trước
nữa.
Ngoài
những
điển
hình
trên
thì
hiện
tượng
hút
hàng
kỳ
lạ
từ
phía
Trung
Quốc
đối
với
rất
nhiều
loại
hàng
hóa
khác
mà
không
ai
giải
thích
được.
Và
có
lẽ
hiện
tượng
này
vẫn
sẽ
còn
tiếp
diễn.
Điều
đáng
nói
là
loại
khoai
lang
đang
được
trồng
rộng
rãi
ở
ĐBSCL,
đặc
biệt
là
ở
Vĩnh
Long
là
loại
khoai
lang
tím
Nhật
Bản,
loại
khoai
lang
này
chủ
yếu
là
để
xuất
khẩu
theo
đường
tiều
ngạch
sang
Trung
Quốc,
còn
thị
trường
trong
nước
thì
không
chuộng
loại
này.
Do
đó,
nếu
bị
thương
nhân
Trung
Quốc
ép
giá
hay
ngừng
tiêu
thụ
thì
thiệt
hại
của
người
trồng
loại
khoai
lang
này
là
điều
hiển
nhiên.
|
Nông
dân
trồng
khoai
lang
ở
Vĩnh
Long,
đến
khi
được
mùa
thì
giá
thu
mua
của
thương
nhân
TQ
giảm
còn
1
nửa
(ảnh
NLĐ) |
Nhắc
lại
những
việc
này
để
thấy
rằng
những
người
nông
dân
Việt
Nam
đang
rất
bị
động
trong
việc
chọn
giống,
chọn
loại
cây
trồng,
vật
nuôi
phù
hợp.
Nói
cách
khác,
những
"trái
đắng"
mà
gần
đây
người
nông
dân
Việt
Nam
phải
gánh
chịu
là
do
họ
hoàn
toàn
phụ
thuộc
và
chạy
theo
vào
nhu
cầu
từ
phía
các
thương
nhân
Trung
Quốc.
Tuy
nhiên,
người
chịu
trách
nhiệm
chính
cho
tình
trạng
này
không
phải
là
người
nông
dân,
bởi
ai
lại
không
muốn
nuôi
trồng
những
thứ
mang
lại
thu
nhập
cao.
Xét
một
cách
công
bằng
thì
một
phần
lỗi
chính
thuộc
về
các
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước,
bởi
hầu
như
các
cơ
quan
này
không
thể
có
được
một
quy
hoạch
nông
nghiệp
tối
ưu,
phù
hợp
với
điều
kiện
tự
nhiên,
thổ
nhưỡng,
khí
hậu
của
từng
địa
phương.
Trong
khi
đó,
nguyên
nhân
chủ
yếu
là
do
các
doanh
ngiệp
Việt
Nam
vẫn
thường
có
tâm
lý
o
ép
về
giá
cả
và
chất
lượng
đối
với
người
nông
dân.
Chính
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đã
khiến
cho
người
nông
dân
quay
lưng
lại
với
họ
khi
gặp
những
đối
tác
khác
sẵn
sàng
trả
giá
cao
hơn.
Trong
những
năm
vừa
qua,
hiện
tượng
thương
nhân
Trung
Quốc
đã
nhiều
lần
ra
sức
thu
gom
hàng
nông
sản
Việt
Nam.
Tuy
nhiên,
phản
ứng
thường
thấy
cả
các
doanh
nghiệp
trong
nước
vẫn
không
có
gì
chuyển
biến.
Vẫn
như
mọi
lần,
khi
bị
thua
ngay
trên
sân
nhà,
thay
vì
tìm
kiếm
những
giải
pháp
mang
tính
chiến
lược
lâu
dài
thì
họ
lại
chọn
cách
la
toáng
lên
hòng
nhận
được
sự
đồng
cảm
của
dư
luận
và
sự
ủng
hộ
của
các
cơ
quan
chức
năng.
Trước
phản
ứng
của
các
doanh
nghiệp
trong
nước
như
trong
thời
gian
vừa
qua,
nhiều
người
sẽ
đặt
ra
câu
hỏi:
Liệu
họ
đóng
vai
trò
như
thế
nào
trong
chuổi
cung
ứng
hàng
hóa
từ
tay
nông
dân
đến
người
tiêu
dùng?
Trong
mắt
họ
thì
người
nông
dân,
những
người
cung
cấp
chính
nguyên
liệu
đầu
vào
cho
sản
xuất
của
họ,
có
đáng
để
cho
họ
quan
tâm,
chăm
sóc,
hay
là
họ
chỉ
biết
thu
gom
hàng
với
giá
rẻ
nhất
và
cố
gắng
bán
với
giá
cao
nhất
để
kiếm
lợi
nhuận,
còn
quyền
lợi
của
người
nông
dân,
người
tiêu
dùng
thì
không
ai
thèm
ngó
ngàng
gì
tới?
Ai
cũng
biết
rằng
ở
Việt
Nam
từ
lâu
đã
tồn
tại
một
thực
tế
rất
khó
chấp
nhận
là
trong
khi
người
nông
dân
thì
luôn
bị
o
ép
với
giá
thu
mua
nông
sản
rẻ
mạt
mà
người
tiêu
dùng
thì
lại
phải
trả
một
cái
giá
cao
ngất
ngưởng.
Trong
đường
đi
của
nông
sản
từ
người
nông
dân
đến
tay
người
tiêu
dùng
thì
người
được
hưởng
lợi
cao
nhất
là
ai?
Câu
hỏi
này
không
cần
trả
lời
vì
chắc
chắn
rằng
ai
cũng
đã
biết.
Có
lẽ
vì
nhiều
lý
do
khác
khá
nhạy
cảm
nên
việc
thương
nhân
Trung
Quốc
tận
thu
hàng
nông
sản
Việt
Nam
đang
nhận
được
sự
quan
tâm
rất
lớn
của
dư
luận.
Vượt
ra
ngoài
khía
cạnh
kinh
tế,
việc
này
còn
ảnh
hưởng
đến
an
ninh
lương
thực,
tính
bền
vững
của
phát
triển
nông
nghiệp
và
lợi
ích
cốt
lỏi
của
đại
bộ
phận
người
dân
Việt
Nam
với
hơn
70%
dân
số,...
|
Thương
nhân
TQ
sang
Việt
Nam
thu
mua
hàng
thuỷ
sản
(ảnh
SGTT) |
Để
giải
tỏa
những
vướng
mắc
đó,
vai
trò
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
được
đánh
giá
là
rất
lớn.
Đã
đến
lúc
các
doanh
nghiệp
nông
sản
Việt
Nam
phải
thay
đổi
toàn
diện
quy
trình
và
chiến
lược
thu
gom
nguyên
liệu
đầu
vào
của
mình.
Không
còn
cách
nào
khác,
các
doanh
nghiệp
phải
biết
chia
sẻ
những
trăn
trở,
khó
khăn
và
lợi
ích
với
người
nông
dân
bằng
cách
đồng
hành
cùng
họ.
Phải
đảm
bảo
nguồn
cung
và
giá
cả
thu
mua
ngay
từ
đầu
mùa
vụ
để
người
nông
dân
an
tâm
mà
chăm
lo
cho
sản
xuất,
đồng
thời
cũng
hỗ
trợ
họ
về
kỹ
thuật,
con
giống,
thậm
chí
vốn
liếng
để
người
nông
dân
mạnh
dạn
đầu
tư
làm
ăn.
Đây
không
còn
là
trách
nhiệm
mà
là
một
xu
hướng
tất
yếu
để
người
nông
dân
và
doanh
nghiệp
phát
triển
bền
vững.
Trong
thời
gian
vừa
qua,
có
một
vài
doanh
nghiệp
đã
bắt
tay
vào
làm
những
việc
này.
Theo
phản
ánh
của
báo
Tuổi
Trẻ
thì
từ
năm
2004,
Công
ty
CP
Thủy
hải
sản
Hùng
Vương
(Tiền
Giang)
đã
bắt
đầu
làm
việc
với
các
hợp
tác
xã
và
nông
dân
để
xây
dựng
vùng
nguyên
liệu
phục
vụ
việc
chế
biến
với
chiến
lược
và
lộ
trình
hẳn
hoi.
Ban
đầu
là
tổ
chức
nuôi
cá
ao,
sau
đó
tham
gia
sản
xuất
thức
ăn
cho
thủy
hải
sản
và
Công
ty
Hùng
Vương
đang
hướng
tới
một
quy
trình
sản
xuất
khép
kín.
Tương
tự,
trong
khi
phát
biểu
trên
báo
Người
Lao
động
gần
đây,
bà
Phạm
Thị
Huân,
Giám
đốc
Công
ty
TNHH
Ba
Huân,
đang
rất
đau
đầu
vì
tình
trạng
thương
nhân
Trung
Quốc
mua
cả
vịt
đẻ,
thuê
giết
mổ
rồi
vận
chuyển
về
nước
này
để
chế
biến
vịt
quay,
đẩy
giá
vịt
đẻ
thải
loại
từ
khoảng
60.000
đồng/con
tăng
lên
120.000
đồng/con
nên
người
nuôi
vịt
đẻ
tranh
thủ
bán
tháo
đàn
dù
chưa
tới
thời
kỳ
thải
loại
khiến
nguồn
cung
trứng
vịt
đang
bị
thiếu
hụt
mạnh,
thì
nay
Công
ty
Ba
Huân
đang
chuẩn
bị
một
kế
hoạch
mang
tính
dài
hơi.
Trong
chương
trình
Xúc
tiến
thương
mại
năm
2011,
ngày
7/7/2011
Sở
Công
Thương
Long
An
tổ
chức
cuộc
họp
triển
khai
việc
hợp
tác
bao
tiêu
sản
phẩm
trứng
gia
cầm
giữa
Cty
TNHH
Ba
Huân
với
các
tổ
hợp
tác
và
hộ
nông
dân
trên
địa
bàn
huyện
Cần
Giuộc,
bà
Phạm
Thị
Huân
cho
biết
sẽ
thực
hiện
chính
sách
hỗ
trợ
nông
dân
trong
chăn
nuôi
gia
cầm
như:
Cung
ứng
giống,
thức
ăn
chăn
nuôi,
kỹ
thuật
xây
dựng
chuồng
trại,
bao
tiêu
sản
phẩm...
theo
hướng
hoàn
toàn
khép
kín.
Thực
ra
thì
những
chính
sách
tương
tự
như
trên
đã
từng
được
thực
hiện
ở
rất
nhiều
nơi
trong
nhiều
năm
qua
nhưng
hiệu
quả
của
nó
thì
chưa
đáng
là
bao.
Nhiều
dự
án
vẫn
với
tính
chất
"đầu
voi,
đuôi
chuột"
nên
đã
khiến
nông
dân
phải
nản
lòng.
Là
một
doanh
nghiệp,
ai
cũng
biết
rằng
lợi
ích
kinh
tế
luôn
được
đặt
lên
hàng
đầu.
Tuy
nhiên
nếu
lợi
ích
này
được
tạo
ra
từ
chính
mồ
hôi,
nước
mắt
của
người
nông
dân
và
tính
bền
vững
của
chiến
lược
phát
triển
kinh
tế
quốc
gia
thì
cần
nên
xem
xét
lại.
Các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
hãy
biến
những
thế
mạnh
từ
nông
sản
trong
nước
thành
những
sản
phẩm
có
sức
cạnh
tranh
cao
trên
thị
trường
thế
giới
để
kiếm
lợi
nhuận
thay
vì
cứ
mãi
cố
tìm
cách
vắt
kiệt
sức
người
nông
dân
hay
tài
sản
quốc
gia
bằng
cách
xuất
khẩu
nguyên
liệu
thô.
Làm
được
điều
này,
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
mới
mong
nhận
được
sự
tôn
trọng
cần
thiết.