XK tăng trưởng mạnh từ nhóm công nghiệp chế biến
Phòng Thương mại Mỹ (AmCham) tại Việt Nam dự báo, XK của Việt Nam vào Mỹ trong năm 2014 khoảng 29,4 tỷ USD, lần đầu tiên đứng đầu ASEAN về XK vào thị trường này. XK của Việt Nam vào Mỹ đã tăng trưởng liên tục trong suốt 15 năm qua. Nếu kim ngạch XK năm 2000 mới ở mức 800 triệu USD thì đến 2013 đạt gần 24 tỷ USD. |
Tính
chung
10
tháng
năm
2014,
KNXK
cả
nước
đạt
123,1
tỷ
USD,
tăng
13,4%
so
với
cùng
kỳ
năm
2013
(tương
đương
với
tăng
14,5
tỷ
USD),
trong
đó
khu
vực
doanh
nghiệp
100%
vốn
trong
nước
đạt
40,6
tỷ
USD,
tăng
12,9%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
Khối
các
doanh
nghiệp
có
vốn
đầu
tư
nước
ngoài
(kể
cả
dầu
thô)
ước
đạt
82,5
tỷ
USD,
tăng
13,6%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
Nhóm
hàng
nông
lâm
thủy
sản
đạt
18,8
tỷ
USD,
chiếm
15,3%
tổng
KNXK,
tăng
14,7%
so
với
cùng
kỳ
năm
2013
với
những
mặt
hàng
có
kim
ngạch
tăng
cao
như
thuỷ
sản,
rau
quả,
nhân
điều,
cà
phê,
hạt
tiêu.
Các
mặt
hàng
giảm
kim
ngạch
đáng
chú
ý
là
gạo
giảm
0,1%,
cao
su
giảm
25,4%.
Cũng
có
sự
giảm
sút
nhẹ
trong
nhóm
hàng
hàng
nhiên
liệu
và
khoáng
sản
khi
đạt
KNXK
gần
7,7
tỷ
USD,
chiếm
6,3%
trong
tổng
KNXK,
giảm
0,2%
so
với
cùng
kỳ
năm
2013.
Nguyên
do
có
sự
giảm
sút
từ
XKthan
đá
giảm
36,1%,
xăng
dầu
các
loại
giảm
21%.
Đáng
chú
ý
nhất
là
nhóm
hàng
công
nghiệp
chế
biến.
Trong
10
tháng
năm
2014
nhóm
hàng
này
đạt
gần
89,4
tỷ
USD,
chiếm
72,6%
trong
tổng
KNXK,
tăng
14%
so
với
cùng
kỳ
năm
2013.
Nếu
quy
ra
trị
giá
thì
mức
tăng
này
tương
đương
gần
11
tỷ
USD
với
sự
đóng
góp
của
các
mặt
hàng
như
thức
ăn
gia
súc
và
nguyên
liệu
tăng
34,4%,
hóa
chất
tăng
65%;
sản
phẩm
hóa
chất
tăng
18,1%;
chất
dẻo
nguyên
liệu
tăng
12,6%;
sản
phẩm
chất
dẻo
tăng
12,7%;
túi
xách,
vali,
mũ,
ô
dù
tăng
35,9%;
gỗ
và
sản
phẩm
từ
gỗ
tăng
13,3%;
hàng
dệt
và
may
mặc
tăng
19,3%;
vải
mành,
vải
kỹ
thuật
khác
tăng
17,2%;
xơ,
sợi
dệt
các
loại
tăng
19,1%;
giày
dép
các
loại
tăng
23,1%.
Trong
nhóm
này
chỉ
có
hai
mặt
hàng
có
kim
ngạch
XK
giảm
là
phân
bón
các
loại
giảm
7,8%,
giấy
và
các
sản
phẩm
từ
giấy
giảm
1,5%.
Thị
trường
chủ
lực
tăng
trưởng
tốt
Trong
các
thị
trường
chủ
lực
của
hàng
Việt
Nam
XK,
thị
trường
Mỹ
tăng
20%
và
chiếm
tỷ
trọng
19%;
XK
vào
EU
tăng
12,8%
và
chiếm
tỷ
trọng
18,4%;
XK
vào
ASEAN
tăng
0,5%
và
chiếm
tỷ
trọng
12,6%;
XK
vào
Nhật
Bản
tăng
10,9%
và
chiếm
tỷ
trọng
10%;
XK
vào
Trung
Quốc
tăng
16,2%
và
chiếm
tỷ
trọng
10,1%.
Tại
thị
trường
Mỹ,
tính
chung
10
tháng
đầu
năm,
kim
ngạch
XK
hàng
hóa
sang
từ
Việt
Nam
đã
đạt
23,69
tỷ
USD,
tăng
21,8%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
Tháng 10-2014 XK hầu hết các mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực sang thị trường Mỹ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng trưởng XK của các mặt hàng dệt may, giày dép các loại, máy vi tính và linh kiện, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản… đều duy trì tốc độ tăng trưởng trên 10% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch XKcủa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tỷ USD) |
Kim ngạch XK theo thị trường (tỷ usd) |
Những
thông
tin
về
triển
vọng
về
việc
làm
tốt
hơn
cùng
với
giá
xăng
dầu
rẻ
nhất
kể
từ
đầu
năm
2011
đang
củng
cố
tinh
thần
của
các
hộ
gia
đình
vào
cùng
thời
điểm
thị
trường
chứng
khoán
cho
thấy
dấu
hiệu
của
sự
ổn
định.
Mức
chi
tiêu
tiêu
dùng,
hoạt
động
du
lịch
và
ngành
chế
tạo
tại
hầu
hết
các
khu
vực
đều
có
nhiều
khởi
sắc.
Do
đó,
nhập
khẩu
hàng
hóa
của
Mỹ
trong
các
tháng
tới
sẽ
tiếp
tục
tăng
trưởng,
là
yếu
tố
hỗ
trợ
XK
hàng
hóa
của
Việt
Nam.
Dệt
may
là
mặt
hàng
hiện
có
kim
ngạch
XK
sang
Mỹ
lớn
nhất
và
được
Bộ
Công
Thương
đánh
giá
tiếp
tục
duy
trì
tốc
độ
tăng
trưởng
khả
quan
khi
nhu
cầu
tiêu
dùng
tăng
trong
dịp
cuối
năm.
Xu
hướng
các
tập
đoàn
sản
xuất
hàng
dệt
may
chuyển
nhà
máy
từ
Trung
Quốc
sang
Việt
Nam
vẫn
đang
tiếp
diễn
do
giá
nhân
công
tại
Trung
Quốc
tăng.
Đơn
cử
TAL
Group,
một
trong
những
hãng
gia
công
áo
nam
lớn
nhất
thế
giới,
cung
cấp
hàng
cho
các
thương
hiệu
thời
trang
danh
tiếng
như
Brooks
Brothers,
L.L.Bean,
Eddie
Bauer
và
Burberry
với
số
lượng
cứ
6
chiếc
áo
sơ-mi
nam
bán
ra
tại
thị
trường
Mỹ
thì
có
một
chiếc
do
TAL
Group
gia
công.
Hiện
các
nhà
máy
đặt
tại
Việt
Nam
chỉ
chiếm
từ
12-15%
tổng
sản
lượng
của
TAL
Group,
nhưng
Tổng
giám
đốc
hãng
này,
Roger
Lee
đã
tuyên
bố
với
báo
giới
việc
trong
vòng
2
năm
tới
tỷ
lệ
này
sẽ
tăng
lên
25%.
Đáng
chú
ý
là
theo
nhận
định
của
Hãng
tin
tài
chính
Bloomberg,
bất
chấp
những
vụ
đốt
phá
các
nhà
máy
tại
Bình
Dương
hồi
tháng
Năm,
cùng
các
lo
ngại
về
việc
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
sẽ
ngần
ngại
khi
đem
tiền
vào
Việt
Nam,
thực
tế
đang
không
diễn
ra
như
vậy,
với
bằng
chứng
là
chính
sách
mới
của
TAL
Group.
Trong
tương
lai,
TAL
Group
không
chỉ
có
ý
định
mở
rộng
quy
mô,
mà
còn
định
đa
dạng
hóa
các
lĩnh
vực
sản
xuất
tại
Việt
Nam.
Trong
vòng
5
năm
qua,
chi
phí
cho
nhân
công
tại
nhà
máy
đặt
ở
Quảng
Đông,
Trung
Quốc
đã
tăng
từ
15
đến
20%
là
một
trong
những
nguyên
do
khiến
TAL
Group
tính
tới
việc
dịch
chuyển.
Hiện
lượng
hàng
tại
các
nhà
máy
ở
Trung
Quốc
chiếm
30%
tổng
sản
lượng
của
TAL
Group.
Thị
trường
Mỹ
cũng
được
đánh
giá
nhiều
tiềm
năng
với
mặt
hàng
XK
mới
của
Việt
Nam
nhưng
những
rào
cản
về
kỹ
thuật
và
quy
định
của
cơ
quan
an
toàn
thực
phẩm
của
Mỹ
rất
chặt
chẽ,
nghiêm
ngặt,
đòi
hỏi
doanh
nghiệp
phải
đáp
ứng
các
luật
mới
đối
với
các
mặt
hàng
NK.
Các
mặt
hàng
thực
phẩm
và
đồ
uống
phải
tuân
thủ
các
quy
định
của
Cơ
quan
quản
lý
thực
phẩm
và
dược
phẩm
(FDA),
cụ
thể
là
về
Luật
Chống
khủng
bố
sinh
học;
việc
đăng
ký,
đại
diện
tại
Mỹ,
thông
báo
trước;
ghi
nhãn,
định
dạng,
ngôn
ngữ;
hệ
thống
phân
tích
và
kiểm
soát
nguồn
nguy
hại
và
tiêu
chuẩn
thực
hành
sản
xuất
tốt
(GMPs).
Rất
nhiều
doanh
nghiệp
mắc
lỗi
khi
xuất
hàng
sang
thị
trường
tiềm
năng
này,
nguyên
nhân
là
do
doanh
nghiệp
Việt
Nam
chưa
tiếp
cận
hoàn
thiện
và
cặn
kẽ
các
quy
định
an
toàn
thực
phẩm,
dược
phẩm
của
FDA.
Do
đó,
trước
khi
xuất
mặt
hàng
thực
phẩm,
dược
phẩm
sang
Mỹ,
các
doanh
nghiệp
phải
đăng
ký
và
khai
thông
báo
trước
với
FDA.
Theo
quy
định
mới
của
Luật
Hiện
đại
hóa
An
toàn
thực
phẩm
của
FDA,
sau
khi
đăng
ký
với
FDA
sẽ
có
thời
gian
để
thẩm
tra
lại
doanh
nghiệp
cũng
như
các
nhà
máy
xem
có
đảm
bảo
vệ
sinh
an
toàn
thực
phẩm
hay
không,
rồi
mới
được
phép
xuất
hàng
sang.
Là
thị
trường
XK
lớn
thứ
hai
của
Việt
Nam,
sau
thị
trường
Mỹ,
quan
hệ
thương
mại
giữa
Việt
Nam
với
Nhật
Bản
đã
tăng
trưởng
mạnh
mẽ
trong
thời
gian
qua.
10
tháng
của
năm
2014,
XK
của
Việt
Nam
sang
Nhật
Bản
đạt
12,26
tỷ
USD,
tăng
10,37%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Trong
đó
có
4
nhóm
hàng
đạt
kim
ngạch
cao
trên
1
tỷ
USD
là
dệt
may;
phương
tiện
vận
tải
phụ
tùng;
dầu
thô
và
máy
móc,
thiết
bị,
dụng
cụ,
phụ
tùng
khác.
Với
mức
tiêu
thụ
hàng
may
mặc
hàng
năm
lên
tới
trên
40
tỷ
USD,
sản
xuất
trong
nước
chỉ
có
5%
và
95%
NK,
Nhật
Bản
là
thị
trường
màu
mỡ
cho
các
nước
XK
hàng
dệt
may
trong
đó
có
Việt
Nam.
Thời
gian
gần
đây,
Nhật
Bản
đã
nhiều
lần
vượt
qua
cả
khối
EU
trở
thành
thị
trường
NK
dệt
may
lớn
thứ
hai
của
Việt
Nam
chỉ
sau
Mỹ.
Tuy
hàng
dệt
may
XK
sang
Nhật
Bản
chiếm
thị
phần
không
lớn,
song
Nhật
Bản
là
bạn
hàng
lâu
đời,
rất
trung
thành
với
ngành
dệt
may
Việt
Nam.
XK
hàng
dệt
may
sang
Nhật
Bản
đang
tăng
cao
là
do
DN
Việt
Nam
hưởng
lợi
(về
ưu
đãi
thuế)
từ
các
hiệp
định
thương
mại
song
phương
và
đa
phương
với
Nhật
Bản.
Ngoài
lợi
thế
được
hưởng
thuế
suất
ưu
đãi
từ
các
Hiệp
định
thương
mại
(FTA),
chính
sách
giảm
NK
từ
Trung
Quốc
cũng
là
cơ
hội
giúp
dệt
may
Việt
Nam
thâm
nhập
và
mở
rộng
hơn
vào
thị
trường
Nhật
Bản.
Các
công
ty
Nhật
Bản
đang
có
hướng
dịch
chuyển
sản
xuất
tại
Trung
Quốc
sang
các
nước
Đông
Nam
Á,
trong
đó
có
Việt
Nam.
Những
khách
hàng
dệt
may
lớn
nhất
của
Nhật
Bản
là
những
tập
đoàn
lớn
hoạt
động
đa
quốc
gia
đã
và
đang
đặt
hàng
tại
Việt
Nam
là:
Uniqlo,
Itochu,
Mitsubishi,
Marubeni,
Mitsu,
Aeon,
Katakura,
Nomura,
Minori…
hiện
đang
rất
gần
gũi
và
yêu
mến
doanh
nghiệp
Việt
Nam.
Việt
Nam
cũng
đang
kêu
gọi
các
nhà
đầu
tư
Nhật
Bản
hợp
tác
trong
lĩnh
vực
dệt,
nhuộm,
hoàn
tất.
Đây
là
công
đoạn
còn
nhiều
hạn
chế
và
thiếu
sót
về
kỹ
thuật
cũng
như
công
nghệ
của
ngành
dệt
may
trong
nước,
nhưng
hiện
đã
có
nhiều
doanh
nghiệp
Nhật
Bản
chủ
động
"đón
đầu"
đầu
tư
vào
lĩnh
vực
này
và
cũng
là
cơ
hội
để
tận
dụng
lợi
thế
khi
Hiệp
định
đối
tác
chiến
lược
xuyên
Thái
Bình
Dương
(TPP)
có
thể
sớm
kết
thúc
để
phát
huy
trong
thực
tế.
Cơ
hội
cho
hàng
Việt
Nam
cũng
được
đánh
giá
là
còn
nhiều
dư
địa
ở
một
số
thị
trường
đông
dân.
Tại
Ấn
Độ,
trong
10
tháng
đầu
năm
2014,
KNXK
mới
đạt
1,96
tỷ
USD,
giảm
4,1%
so
với
cùng
kỳ
năm
2013.
Trong
khi
đó,
với
dân
số
trên
1,2
tỷ
người,
Ấn
Độ
là
thị
trường
có
nhu
cầu
rất
lớn
đối
với
hầu
hết
các
mặt
hàng
cả
về
số
lượng
và
chủng
loại.
Mỗi
năm,
Ấn
Độ
NK
lượng
hàng
hóa
khoảng
500
tỷ
USD
và
dự
báo
kim
ngạch
NK
có
tốc
độ
tăng
trưởng
5%
đến
10%
trong
giai
đoạn
tới.
Dẫu vậy thì với sự tăng cường quan hệ giữa hai nước trong thời gian gần đây, hàng Việt Nam cũng bắt đầu có sự tăng trưởng mạnh khi XK sang Ấn Độ với cơ cấu mặt hàng phong phú hơn so với thuần túy nông sản như trước đây. Dự kiến trong thời gian tới, khi Hiệp định FTA về dịch vụ và đầu tư được ký kết vào cuối năm 2014 sẽ thúc đẩy hoạt động của các nhà đầu tư Ấn Độ tại khu vực ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì vậy, các doanh nghiệp trong nước cần nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng tại thị trường này, vạch ra cho mình một chiến lược phát triển bền vững lâu dài nhằm đẩy mạnh XK tăng trưởng cao hơn nữa, góp phần thúc đẩy nền kinh tế trong nước.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương): Ngoài những mặt hàng XK chủ lực sang Mỹ như dệt may, da giày, thủy sản..., một số mặt hàng khác như điều, cà phê... cũng có sự tăng trưởng tốt. Ngoài ra, từ đầu tháng 10, Mỹ đã chính thức mở cửa cho quả vải, nhãn của Việt Nam được XK sang thị trường này. Như vậy, có thể thấy, cơ hội XK cho hàng hóa Việt Nam sang thị trường này là rất lớn. Việc sản phẩm dệt may, da giày, thủy sản... chiếm thị phần lớn tại Mỹ chứng tỏ hàng Việt Nam đã có sức cạnh tranh cao với các thị trường khác. Ông Nguyễn Trung Thành, Giám đốc bán hàng Công ty Thực phẩm GOC: Dù có 4, 5 năm kinh nghiệm XK vào thị trường Mỹ nhưng DN vẫn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, khi có Luật hiện đại hoá an toàn vệ sinh thực phẩm (FSMA), chúng tôi đã nghiên cứu rất rõ các quy định liên quan đến an toàn thực phẩm, thậm chí còn hợp tác với một DN của Mỹ để cung cấp thông tin nhưng vẫn gặp không ít khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn về sản phẩm, hoàn thiện các thủ tục giấy tờ theo quy định. Mặc dù cơ quan của Mỹ có cơ chế mở để các DN có thể tự đăng ký theo quy định, tuy nhiên các quy định này đưa ra rất chi tiết, nên nếu các DN mà tự đăng ký thì mất rất nhiều thời gian, mà đôi khi còn không đúng. Ông David Lennarz, Phó Chủ tịch Công ty Registrar Corp (một công ty tư vấn đối với các DN XK sang Mỹ): Rất nhiều DN mắc lỗi khi xuất hàng sang thị trường Mỹ, nguyên nhân là do DN Việt Nam chưa tiếp cận hoàn thiện và cặn kẽ các quy định an toàn thực phẩm, dược phẩm của FDA. Do vậy, DN cần cần lưu ý là phải đăng ký với FDA về cơ sở sản xuất đóng gói sản phẩm của mình; phải đảm bảo ghi nhãn phù hợp với FDA; chuẩn bị cho việc thanh tra của FDA về cơ sở sản xuất thực phẩm. Những quy định quan trọng nhất trong quy định của FDA được ban hành vào tháng 10-2015 là phải phát triển hệ thống an toàn thực phẩm và hệ thống này đảm bảo sản phẩm được sản xuất an toàn, chất lượng. P.Thu (ghi) |