Ngày
30/8/2011,
Ngân
hàng
Nhà
nước
ban
hành
Thông
tư
22,
trong
đó
đề
cập
hủy
bỏ
các
quy
định
về
tỷ
lệ
cấp
tín
dụng
từ
nguồn
vốn
huy
động
tại
Thông
tư
13
và
19.
Không
ít
tổ
chức
tín
dụng
tỏ
ra
hoan
hỉ,
khi
thay
vì
huy
động
10
đồng
chỉ
được
cho
vay
8
đồng,
cất
bớt
2
đồng
dự
phòng
cơ
nhỡ
thì
nay,
gần
như
“được
đồng
nào,
xào
đồng
ấy”!
Vì
sao
gây
tranh
cãi?
Hiếm
thấy
một
văn
bản
nào
mà
“số
phận
long
đong”
và
gây
nhiều
tranh
cãi
như
Thông
tư
13/2010/TT-NHNN,
ban
hành
ngày
20/5/2010.
Bởi
lẽ,
tỷ
lệ
bảo
đảm
an
toàn
hoạt
động
của
tổ
chức
tín
dụng
được
quy
định
tại
thông
tư
này
tồn
tại
được
4
tháng
thì
ngày
27/9/2010,
Ngân
hàng
Nhà
nước
phải
ban
hành
Thông
tư
19/2010/TT-NHNN
để
sửa
đổi
bổ
sung.
Chưa
dừng
lại,
ngày
30/8/2011,
Ngân
hàng
Nhà
nước
tiếp
tục
“sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều”,
nhưng
thực
chất
là
hủy
bỏ
hẳn
các
quy
định
nói
trên.
Trước
hết,
tỷ
lệ
bảo
đảm
an
toàn
cấp
tín
dụng
từ
nguồn
vốn
huy
động
được
quy
định
tại
Thông
tư
13
như
sau:
tổ
chức
tín
dụng
(trừ
Ngân
hàng
Chính
sách
xã
hội,
Ngân
hàng
Phát
triển
Việt
Nam,
Quỹ
Tín
dụng
nhân
dân
cơ
sở)
chỉ
được
sử
dụng
nguồn
vốn
huy
động
để
cấp
tín
dụng
với
điều
kiện
trước
và
sau
khi
cấp
tín
dụng
đều
đảm
bảo
tỷ
lệ
về
“khả
năng
chi
trả”
và
“các
tỷ
lệ
bảo
đảm
an
toàn
khác”
quy
định
tại
thông
tư
này (Thông
tư
13
-
PV) và
không
được
vượt
quá
tỷ
lệ
dưới
đây:
Đối
với
ngân
hàng:
80%;
tổ
chức
tín
dụng
phi
ngân
hàng:
85%
Tuy
nhiên,
khi
quy
định
trên
ra
đời,
các
tổ
chức
tín
dụng
đã
than
phiền
vì
một
lượng
vốn
sau
khi
huy
động
và/hoặc
các
nguồn
vốn
khác
mà
tổ
chức
tín
dụng
có
được
bị
giam
giữ
quá
nhiều,
trong
khi
nguồn
cấp
tín
dụng
bị
thu
hẹp.
Tình
thế
đó
buộc
Ngân
hàng
Nhà
nước
ban
hành
Thông
tư
19
sửa
đổi
một
số
điều
của
Thông
tư
13.
Trong
đó,
Ngân
hàng
Nhà
nước
chỉ
thay
đổi
từ
“so
với”
tại
Mục
5,
Điều
18
bằng
từ
“từ”;
điều
này
được
diễn
đạt
lại
là:
“tỷ
lệ
cấp
tín
dụng
từ
nguồn
vốn
huy
động”,
thay
vì
“tỷ
lệ
cấp
tín
dụng
so
với
nguồn
vốn
huy
động”.
Sự
khác
biệt
về
bản
chất
như
sau:
khi
cấp
tín
dụng,
các
tổ
chức
tín
dụng
không
chỉ
phụ
thuộc
vào
kênh
huy
động
từ
dân
cư,
tổ
chức
kinh
tế
mà
có
nhiều
kênh
khác
như:
vốn
tự
có;
hoặc:
trong
nhiều
trường
hợp,
họ
còn
sử
dụng
cả
vốn
huy
động
trên
thị
trường
liên
ngân
hàng
và
vốn
giao
dịch
nghiệp
vụ
thị
trường
mở
để
cấp
tín
dụng.
Vì
thế,
nếu
quy
định
“tỷ
lệ
cấp
tín
dụng
so
với
nguồn
vốn
huy
động”
thì
hóa
ra,
các
tổ
chức
tín
dụng
bị
giam
giữ
một
lượng
vốn
rất
lớn;
ngược
lại,
quy
định
“tỷ
lệ
cấp
tín
dụng
từ
nguồn
vốn
huy
động”
thì
các
tổ
chức
tín
dụng
được
giải
phóng
một
lượng
vốn
nhiều
hơn
để
cấp
tín
dụng.
Hay
nói
cách
khác,
khi
cấp
tín
dụng,
các
tổ
chức
tín
dụng
chỉ
phải
“ke”
tỷ
lệ
cấp
so
với
vốn
huy
động,
còn
các
nguồn
khác
như
lấy
trên
OMO,
vay
liên
ngân
hàng,
vốn
tự…
không
phải
chịu
ràng
buộc
bởi
quy
định
này.
Tuy
nhiên,
tại
Thông
tư
22
ban
hành
ngày
30/8,
Ngân
hàng
Nhà
nước
bỏ
luôn
quy
định
này.
Đồng
thời,
Ngân
hàng
Nhà
nước
cũng
“phế”
những
quy
định
về
nguồn
vốn
huy
động
tại
Mục
5
của
Thông
tư
13
và
Thông
tư
19
như:
tiền
gửi
của
cá
nhân
dưới
các
hình
thức
tiền
gửi
không
kỳ
hạn,
tiền
gửi
có
kỳ
hạn;
tiền
gửi
có
kỳ
hạn
của
tổ
chức
bao
gồm
cả
tiền
gửi
có
kỳ
hạn
của
tổ
chức
tín
dụng
khác
và
chi
nhánh
ngân
hàng
nước
ngoài;
25%
tiền
gửi
không
kỳ
hạn
của
tổ
chức
kinh
tế
(trừ
tổ
chức
tín
dụng);
tiền
vay
của
tổ
chức
trong
nước,
tiền
vay
của
tổ
chức
tín
dụng
khác
có
kỳ
hạn
3
tháng
trở
lên
và
tiền
vay
của
tổ
chức
tín
dụng
nước
ngoài.
Cuối
cùng
là
vốn
huy
động
từ
tổ
chức,
cá
nhân
dưới
hình
thức
phát
hành
giấy
tờ
có
giá.
Điều
này
được
hiểu,
đã
là
vốn
thì
vốn
nào
cũng
được
phép
cấp
tín
dụng,
hay
dân
dã
hơn
là
“mèo
nào
cũng
bắt
được
chuột”.
Người
trong
cuộc
nói
gì?
Liên
quan
đến
việc
tháo
gỡ
vướng
mắc
tại
Thông
tư
13
và
19,
trước
khi
Ngân
hàng
Nhà
nước
ban
hành
Thông
tư
22,
ông
Lê
Đức
Thọ,
Phó
tổng
giám
đốc
VietinBank
nói:
“Không
nên
đặt
vấn
đề
nới
lỏng
hay
thắt
chặt
ở
đây.
Trong
bối
cảnh
nền
kinh
tế
đang
khó
khăn,
luân
chuyển
vốn
có
vấn
đề
thì
các
chính
sách
quản
lý
phải
cùng
chiều
với
định
hướng
của
Chính
phủ
nhằm
giữ
vững
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô
và
thúc
đẩy
tăng
trưởng.
Vì
thế,
những
quy
định
về
an
toàn
cũng
phải
ở
liều
lượng
nhất
định
để
phù
hợp
với
tình
hình”.
Chung
quan
điểm
này,
nhiều
ngân
hàng
khác
cũng
rất
hân
hoan
với
Thông
tư
22,
bởi
thay
vì
huy
động
10
đồng
chỉ
cho
vay
8
đồng
thì
nay,
họ
được
cho
vay
tới
9
đồng
hoặc
hơn.
Hơn
thế,
những
“gông
cùm”
khác
như
“25%
tiền
gửi
không
kỳ
hạn”
mới
được
coi
là
nguồn
vốn
huy
động
cũng
được
dỡ
bỏ.
Nhờ
đó,
nguồn
vốn
để
các
tổ
chức
tín
dụng
cấp
ra
nền
kinh
tế
dư
dả
hơn
và
đó
là
một
trong
những
căn
cứ
để
lãi
suất
tiền
vay
sẽ
giảm
xuống
trong
thời
gian
tới
như
mong
muốn
của
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Tuy
nhiên,
dưới
cách
nhìn
cẩn
trọng,
một
chuyên
gia
ngân
hàng
phân
tích:
“Tuy
rằng,
việc
bỏ
các
giới
hạn
này
sẽ
làm
cho
vay
mượn
nhau
trên
thị
trường
không
bị
hạn
chế,
luân
chuyển
vốn
tốt
hơn,
dung
lượng
vốn
cấp
tín
dụng
nhiều
hơn,
nhưng
nếu
không
làm
chặt
khống
chế
tăng
trưởng
tín
dụng
20%
thì
cũng
giống
như
cửa
mở,
khó
tránh
gió
độc”.
Theo
ông,
nếu
“van”
tăng
trưởng
tín
dụng
20%
không
kiểm
soát
chặt
chẽ
thì
rất
nhiều
khoản
mục
đầu
tư
dưới
dạng
ủy
thác
đầu
tư,
mua
trái
phiếu
doanh
nghiệp
mà
bản
chất
là
cấp
tín
dụng
sẽ
bùng
nổ
nhiều
hơn
và
rủi
ro
là
khó
tránh.
Chưa
kể,
do
sự
lách
luật
này
mà
lượng
tiền
đưa
ra
nền
kinh
tế
thì
tăng
nhưng
về
hình
thức,
hạch
toán
tín
dụng
của
ngân
hàng
lại
không.
Vì
thế,
lạm
phát
sẽ
còn
đeo
đẳng.
Hơn
nữa,
khi
đầu
tư
mua
trái
phiếu
doanh
nghiệp,
nếu
doanh
nghiệp
phá
sản
thì
ngân
hàng
không
chỉ
hoàn
toàn
mất
vốn
mà
rủi
ro
đó
còn
không
được
bảo
hiểm,
do
trước
đó
chúng
không
được
trích
lập
dự
phòng
rủi
ro
như
các
khoản
tín
dụng
thông
thường.
Vị
này
cho
rằng,
sau
khi
áp
dụng
Thông
tư
22,
Ngân
hàng
Nhà
nước
cần
tăng
cường
thanh
tra,
kiểm
soát
tốc
độ
tăng
trưởng
tín
dụng
ở
mỗi
ngân
hàng
mà
mình
cho
phép
để
các
tổ
chức
tín
dụng
phải
hạch
toán
đúng,
tránh
hạch
toán
lẫn
lộn
giữa
tín
dụng
và
đầu
tư
trong
các
báo
cáo
tài
chính;
nhờ
đó,
vừa
phản
ánh
đúng
bản
chất
luân
chuyển
dòng
vốn
trong
nền
kinh
tế,
vừa
tránh
rủi
ro
cho
hệ
thống.