Liên
quan
đến
hiệp
định
thương
mại
Asean
2015
và
vấn
đề
Việt
Nam
đang
nỗ
lực
để
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế,
chúng
tôi
đã
có
cuộc
trò
chuyện
cùng
chuyên
gia
kinh
tế
Phạm
Chi
Lan
để
làm
sáng
tỏ
thêm
bức
tranh
về
các
FTA
(khu
vực
thương
mại
tự
do)
hiện
nay
mà
Việt
Nam
đang
tham
gia
cũng
như
các
thách
thức
mà
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
phải
đối
mặt
trong
thời
gian
tới.
PV:
Xin
bà
có
thể
mô
tả
khát
quát
về
bức
tranh
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế
của
Việt
Nam
thông
qua
các
FTA
mà
Việt
Nam
đang
tham
gia?
Bà
Phạm
Chi
Lan:
Hiện
nay
Việt
Nam
có
tham
gia
6
cam
kết
FTA
với
các
tổ
chức
khác
nhau,
trong
đó
chủ
yếu
thông
qua
cơ
chế
giữa
FTA
Asean
với
một
nước
khác.
(Việt
Nam
đóng
vai
trò
là
thành
viên
của
Asean).
Trong
đó
có:
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
Asean
với
Trung
Quốc
(ACFTA);
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
Asean
–
Hàn
Quốc
(AKFTA);
Hiệp
định
đối
tác
kinh
tế
toàn
diện
Asean
–
Nhật
Bản
(AJCEP);
Hiệp
định
khu
vực
thương
mại
tự
do
Asean
–
Úc
–
Niu
Di-lân
(AANZFTA);
Hiệp
định
thương
mại
hàng
hóa
Asean
-
Ấn
Độ
(AITIG)
và
Hiệp
định
đối
tác
kinh
tế
Việt
Nam
–
Nhật
Bản
(VJEPA).
Có
thể
nói,
WTO
là
một
khuôn
khổ
lớn
đã
được
nhắc
đến
nhiều,
nhưng
FTA
còn
cao
hơn
WTO
ở
chỗ
mức
thuế
cam
kết
giảm
xuống
rất
nhiều,
mức
độ
mở
cửa
thị
trường
cũng
cao
hơn
nhiều.
Thông
thường,
khi
đề
cập
đến
FTA,
ngoài
chuyện
về
thương
mại
hàng
hóa,
còn
có
thể
đề
cập
đến
các
vấn
đề
khác
như
thương
mại
dịch
vụ,
đầu
tư
và
các
hình
thức
hợp
tác
kinh
tế
khác
với
nhau…
Việt
Nam
đã
có
những
bước
phát
triển
trong
tiến
trình
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế:
đầu
tiên
là
gia
nhập
Hiệp
hội
các
nước
Asean,
sau
đó
là
AFTA
–
hiệp
định
mậu
dịch
tự
do
của
Asean,
bây
giờ
gọi
là
ATIGA,
trong
đó
bao
gồm
cả
thương
mại
và
đầu
tư.
Đến
năm
2015
là
hình
thành
toàn
bộ
cộng
đồng
kinh
tế
Asean.
Trong
cộng
đồng
này
mức
giảm
thuế
rất
sâu,
về
cơ
bản
là
từ
0
-5%
nhưng
hầu
hết
là
0%.
Những
cam
kết
giảm
thuế
bắt
đầu
từ
năm
2006
nhưng
đến
năm
2010
là
thời
điểm
đẩy
mạnh
tiến
trình
giảm
thuế
xuống
đến
0
để
đến
năm
2015
thì
các
mức
thuế
về
cơ
bản
là
0%.
Hiện
nay,
vấn
đề
buôn
lậu
còn
nhiều
vì
còn
áp
thuế,
nhưng
đến
lúc
không
có
thuế
nữa
thì
không
còn
buôn
lậu
mà
hàng
hóa
cứ
việc
đi
vào.
Trong
khi
thuế
hạ
như
vậy
thì
lẽ
ra
phải
chuẩn
bị
những
công
cụ
khác
ví
dụ
những
yêu
cầu
về
kiểm
soát
chất
lượng,
yêu
cầu
về
kỹ
thuật
tối
thiểu,
kê
khai
nguồn
gốc
nhưng
chúng
ta
gần
như
không
có,
nên
không
có
cơ
sở
để
trừng
phạt
hoặc
thu
hồi
hàng
hóa
kém
chất
lượng.
Ngược
lại,
các
nước
có
quan
hệ
thương
mại
với
chúng
ta
lại
xây
dựng
được
hàng
rào
phi
thuế
quan
rất
tốt
như
Trung
Quốc
chẳng
hạn.
Ví
dụ
đối
với
chuyện
vải
Lục
Ngạn
xuất
sang
Trung
Quốc,
tuy
nước
này
rất
thích
vải
nhưng
khi
nhập
vải
từ
Việt
Nam
thì
đều
yêu
cầu
ghi
rõ
địa
chỉ
của
người
sản
xuất
ở
vùng
nào,
vườn
nào
thật
cụ
thể.
Việt
Nam
vẫn
chưa
có
công
cụ
tương
ứng
như
vậy
đối
với
hàng
Trung
Quốc.
Điều
đáng
lo
ngại
nữa
là
khi
90%
dòng
thuế
không
còn
nữa
nhưng
đồng
thời
chúng
ta
vẫn
chưa
làm
được
bất
cứ
điều
gì
để
tạo
nên
những
hàng
rào
phi
thuế
cần
thiết,
trước
hết
là
để
bảo
vệ
cho
người
tiêu
dùng
khỏi
ăn
phải
những
thứ
độc
hại.
Không
giống
các
nước
khác
như
Mỹ,
EU
hay
Nhật
Bản
đã
có
sẵn
những
hàng
rào
tiêu
chuẩn
rất
rõ
ràng
và
dễ
dàng
phạt
thậm
chí
rất
nặng
nếu
hàng
hóa
nhập
vào
nước
họ
không
đáp
ứng
đúng
yêu
cầu.
Trong
khi
Việt
Nam
không
có
công
cụ
thì
sẽ
rất
khó
cản
được
họ,
thậm
chí
đến
việc
muốn
lên
án,
lên
tiếng
cũng
còn
khó.
Dường
như
nhìn
lại
trong
6
cái
FTA
này
thì
chưa
thấy
mình
tận
dụng
đươc
cơ
hội
bao
nhiêu
vì
cái
đà
tăng
trưởng
xuất
khẩu
của
mình
cơ
bản
vẫn
là
sang
Hoa
Kỳ,
sang
EU,
sang
Nhật
Bản
hơn
là
sang
các
nước
có
hiệp
định
FTA
với
Asean
nhưng
lại
nhập
khẩu
dữ
dội
nhất
từ
các
nước
này.
PV:
Việc
ký
kết
thì
cũng
đã
thực
hiện
rồi,
vậy
theo
bà
liệu
có
những
biện
pháp
nào
để
khắc
phục
không?
Chúng
ta
cần
phải
làm
gì?
Bà
Phạm
Chi
Lan:
Tôi
nghĩ
chuyện
hàng
rào
phi
thuế
quan
là
chuyện
nhà
nước
phải
làm
vì
thực
sự
thì
rất
cần
có
những
chuẩn
này
để
kiểm
soát
và
chỉ
có
nhà
nước
mới
có
quyền
đưa
ra
các
chuẩn.
Thêm
nữa,
cũng
rất
cần
tập
trung
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
cho
các
doanh
nghiệp
của
chúng
ta.
Và
điều
thứ
ba
cũng
quan
trọng
không
kém
đó
là
vai
trò
của
truyền
thông.
Hiện
nay,
trên
các
mặt
báo
đưa
được
những
câu
chuyện
nóng
đang
xảy
ra
nhưng
chưa
phân
tích
được
những
tác
hại
dài
hạn
hơn
để
cho
cả
nhà
nước,
doanh
nghiệp
và
người
tiêu
dùng
nhận
thức
một
cách
đúng
đắn
và
đầy
đủ
nhất.
Đặc
biệt
truyền
thông
phải
đảm
bảo
việc
cung
cấp
đầy
đủ
thông
tin
mà
xã
hội
đang
thực
sự
cần
mang
tính
chất
hướng
dẫn
chỉ
đường
để
người
ta
thoát
ra
hơn
là
xa
vào
việc
tuyên
truyền
cho
các
đường
lối
chính
sách
của
nhà
nước.
PV:
Tính
từ
năm
2006
khi
Việt
Nam
bắt
đầu
gia
nhập
FTA
với
các
nước
trong
khu
vực
Asean
(FTA
đầu
tiên
và
lâu
nhất)
thì
có
bao
nhiêu
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đã
tận
dụng
được
các
cơ
chế
ưu
đãi
thuế
quan?
Bà
Phạm
Chi
Lan:
Theo
báo
cáo
của
Bộ
Thương
mại
thì
hiện
nay
có
khoảng
30%
doanh
nghiệp
tận
dụng
được
các
cơ
chế
ưu
đãi
thuế
quan
trong
các
FTA.
Nhưng
trong
đó,
đa
phần
là
các
doanh
nghiệp
có
vốn
đầu
tư
nước
ngoài
còn
bản
thân
các
doanh
nghiệp
trong
nước
không
tận
dụng
được
mấy.
Tình
trạng
này
cũng
giống
các
nước
khác
trong
khu
vực
Asean.
PV:
Tính
ra
thì
đã
có
một
số
các
mặt
hàng
đã
có
hàng
rào
kỹ
thuật,
nhưng
có
tính
trạng
là
lúc
bắt
đầu
có
hiệu
lực
thì
các
doanh
nghiệp
phản
ứng
rầm
rộ,
thậm
chí
lợi
dụng
tăng
giá
với
lý
do
là
phải
đầu
tư
thêm
vốn
để
thực
hiện
các
khâu
kiểm
tra
kỹ
thuật.
Nhưng
sau
một
thời
gian
thì
“đâu
lại
vào
đó”,
hàng
kém
chất
lượng
vẫn
nhan
nhản
còn
những
tiêu
chuẩn
lại
mang
tính
đối
phó
là
chủ
yếu.
Vậy
tại
sao
mình
đã
có
hàng
rào
kỹ
thuật
rồi
nhưng
vẫn
không
kiểm
soát
được
thị
trường
như
vậy,
thưa
bà?
Bà
Phạm
Chi
Lan:
Ở
nước
mình
có
hiện
tượng
vừa
thiếu
và
vừa
không
nghiêm.
Đối
với
những
người
giám
sát
thực
hiện
cũng
không
nghiêm
túc
trong
việc
thực
hiện
trách
nhiệm
giám
sát
của
mình.
Nếu
giám
sát
đầy
đủ,
làm
tới
nơi
tới
chấn
thì
cũng
có
thể
thực
hiện
được
chứ.
Hơn
nữa
tính
tự
giác
của
doanh
nghiệp
cũng
không
cao.
Thực
tế
người
ta
không
tự
giác
được
đâu
nếu
như
không
có
giám
sát
đàng
hoàng
hoặc
không
chịu
một
sự
trừng
phạt
nào
đó
của
thị
trường
hoặc
pháp
lý.
PV:
Xin
bà
cho
biết
điều
quan
trọng
trong
việc
xây
dựng
hàng
rào
phi
thuế
quan
hiện
nay
trong
bối
cảnh
Việt
Nam
đang
gia
nhập
vào
các
FTA
hiện
nay?
Bà
Phạm
Chi
Lan:
Tôi
nghĩ
rằng
các
FTA
mà
Việt
Nam
đang
tham
gia
hiện
nay
đang
tạo
ra
áp
lực
ngày
càng
lớn
cho
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
và
các
ngành
kinh
tế
của
Việt
Nam
trong
tương
lai,
đặc
biệt
là
giai
đoạn
từ
nay
cho
đến
năm
2015,
là
mốc
cuối
cùng
mà
chúng
ta
thực
hiện
giảm
thuế
cho
90%
dòng
thuế
xuống
mức
còn
0%
với
các
nền
kinh
tế
lớn
xung
quanh
Việt
Nam. Điều
này
gây
lên
áp
lực
cho
các
ngành
sản
xuất
trong
nước,
các
doanh
nghiệp
trong
nước.
Vì
vậy,
có
lẽ
công
cụ
quan
trong
số
một
hiện
nay
là
tạo
ra
một
môi
trường
kinh
doanh
tốt
và
động
viên
tối
đa
các
doanh
nghiệp
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
của
mình.
Trong
vấn
đề
này,
bản
thân
các
doanh
nghiệp
cần
phải
nỗ
lực
trước
tiên
nhưng
nhà
nước
cũng
cần
phải
chú
ý
đến
việc
tạo
môi
trường
kinh
doanh
và
tạo
điều
kiện
để
hỗ
trợ
các
doanh
nghiệp
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh.
Một
mặt
khác
cũng
quan
trọng
không
kém
là
xây
dựng
những
hàng
rào
kỹ
thuật
cần
thiết.
Những
hàng
rào
kỹ
thuật
này
sẽ
góp
phần
ngăn
chặn
những
hàng
có
chất
lượng
kém
từ
bên
ngoài
vào.
Họ
được
hưởng
những
bảo
hộ,
ưu
đãi
nào
đó
từ
nước
họ
và
do
đó
họ
có
thể
tràn
vào
thị
trường
Việt
Nam
và
cạnh
tranh
rất
mạnh
trên
thị
trường
Việt
Nam
với
một
tư
thế
cạnh
tranh
không
bình
đẳng.
Từ
đó
họ
có
thể
giết
một
số
ngành,
một
số
doanh
nghiệp
Việt
Nam.
Cũng
có
sự
lo
lắng
cho
rằng
nếu
nâng
hàng
rào
kỹ
thuật
lên
thì
có
thể
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
sẽ
không
với
được
các
hàng
rào
đó.
Bởi
vì
một
khi
chúng
ta
đã
tham
gia
WTO
thì
các
hàng
rào
kỹ
thuật
được
đưa
ra
là
những
hàng
rào
được
áp
dụng
chung
cho
cả
doanh
nghiệp
trong
nước
cũng
như
doanh
nghiệp
nước
ngoài.
Tôi
nghĩ
điều
lo
lắng
này
cũng
không
nên
đặt
lên
cao.
Bởi
vì,
bản
thân
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
trong
quá
trình
vươn
lên
để
cạnh
tranh
cũng
phải
tự
mình
nỗ
lực
không
ngừng
để
nâng
cao
chất
lượng
cảu
sản
phẩm,
đạt
được
các
điều
kiện
về
tiêu
chuẩn
của
sản
phẩm
để
đáp
ứng
cho
cả
thị
trường
trong
nước
cũng
như
thị
trường
xuất
khẩu
ở
nước
ngoài.
Vì
vậy
việc
nâng
cao
những
tiêu
chuẩn
về
kỹ
thuật
là
việc
các
doanh
nghiệp
thường
xuyên
phải
làm.
Nhà
nước
cũng
nên
quan
tâm
nâng
dần
các
hàng
rào
kỹ
thuật
đó
lên
để
cho
các
doanh
nghiệp
trong
nước
phấn
đấu
và
bảo
vệ
quyền
lợi
cho
người
tiêu
dùng
trong
nước
cũng
như
nân
cao
khả
năng
cạnh
tranh
của
Việt
Nam.
Mặt
khác
thì
phải
có
những
hàng
rào
đó
thì
mới
ngăn
chặn
được
những
sản
phẩm
xấu,
chất
lượng
kém
từ
bên
ngoài
đang
tràn
vào
Việt
Nam
rất
dữ
dội
như
chúng
ta
thấy
trong
thời
gian
vừa
qua.
Nó
vừa
gây
phương
hại
cho
nền
sản
xuất
và
đồng
thời
nó
cũng
gây
phương
hại
rất
lớn
cho
người
tiêu
dùng
Việt
Nam.
Người
tiêu
dùng
Việt
Nam
nhiều
khi
phải
trả
giá
oan
cho
những
sản
phẩm
mang
tiếng
là
hàng
ngoại
nhưng
lại
mang
đến
rất
nhiều
nhân
tố
độc
hại.
PV:
Vậy
thì
đâu
là
điều
mà
bà
lo
ngoại
nhất
trong
việc
Việt
Nam
đang
trong
quá
trình
giảm
thuế
đối
với
các
FTA
Trung
Quốc?
Bà
Phạm
Chi
Lan:
Tôi
nghĩ
vấn
đề
chính
ở
đây
là
câu
chuyện
về
cạnh
tranh.
Và
muốn
cạnh
tranh
thì
đối
với
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
phải
dựa
vào
cả
hai
mặt.
Một
mặt
là
bản
thân
các
doanh
nghiệp
phải
có
nỗ
lực,
các
hiệp
hội
doanh
nghiệp
trong
cùng
ngành
hàng
với
nhau
phải
tăng
cường
sự
liên
kết
để
dấy
lên
một
nỗ
lực
chung
để
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
của
họ.
Mặt
khác
cũng
không
kém
phần
quan
trọng
đối
với
các
doanh
nghiệp
đó
là
môi
trường
kinh
doanh
của
nước
ta,
và
tất
cả
những
điều
kiện
để
cùng
nhau
nâng
trình
độ
của
nền
kinh
tế
lên
cao
hơn.
Ở
đây
các
khía
cạnh
về
kỹ
thuật,
về
chuẩn
mực
hàng
hóa
cũng
như
về
quản
lý
ở
tầng
doanh
nghiệp
hay
ở
mức
vĩ
mô
đều
quan
trọng
như
nhau.