Lịch
sử
thế
giới
đã
quen
với
sự
thống
trị
của
các
nước
phương
Tây.
Với
sự
trỗi
dậy
của
một
số
cường
quốc
mới,
lịch
sử
chắc
chắn
sang
chương
mới!
Tóm
tắt:
Sức
mạnh
kinh
tế
đang
trở
lại
với
nhóm
nước
mới
nổi
tại
châu
Á
như
Ấn
Độ,
Trung
Quốc
và
nhiều
nước
khác
nhờ
hoạt
động
cải
cách,
mở
cửa.
Khi
sức
mạnh
kinh
tế
lớn
hơn,
sức
mạnh
trên
nhiều
lĩnh
vực
khác
của
các
nước
mới
nổi
cũng
sẽ
khác.
Quarry
Bank
Mill
là
một
tòa
nhà
gạch
5
tầng
nằm
ở
thung
lũng
thuộc
Styal,
một
ngôi
làng
nhỏ
của
Anh
cách
Manchester
vài
dặm
về
phía
Nam.
Nhà
buôn
Samuel
Greg
đã
xây
tòa
nhà
này
vào
năm
1784,
ông
làm
giàu
từ
việc
chuyên
cung
cấp
bông
cho
những
người
thợ
dệt
Lancshire.
Bông
thô
nhập
từ
các
đồn
điền
của
Mỹ
được
xử
lý
bằng
máy
móc
hiện
đại
nhất
lúc
bất
giờ.
Sau
đó,
Grag
mở
rộng
nhà
máy
và
sử
dụng
động
cơ
chạy
than
đá.
Năng
suất
lập
tức
tăng
mạnh.
Năm
1700,
phải
mất
200
giờ
đồng
hồ
để
sản
xuất
một
cân
sợi.
Thế
nhưng
đến
năm
1820,
chỉ
mất
1
giờ
để
có
sản
phẩm
tương
tự.
Nhà
máy
của
Greg
nằm
trong
một
cuộc
cách
mạng
ngành
đã
thay
đổi
mạnh
mẽ
trật
tự
trên
thế
giới.
Công
nghệ
mới:
phát
minh
tiết
kiệm
sức
lao
động,
sản
xuất
tại
nhà
máy,
động
cơ
chạy
bằng
nhiên
liệu
hóa
thạch
nhanh
chóng
được
sử
dụng
rộng
rãi
khắp
các
nước
Tây
Âu.
Những
nước
phát
triển
công
nghiệp
đầu
tiên
(và
một
vài
nước
sau
đó
như
Nhật)
đã
có
thể
xây
dựng
và
củng
cố
thế
dẫn
đầu
của
họ
trong
công
nghệ
và
cải
thiện
cuộc
sống
cho
người
dân.
Sự
“phân
kỳ”
giữa
phương
Tây
và
các
nước
còn
lại
kéo
dài
trong
2
thế
kỷ.
Nhà
máy
tại
Styal,
một
thời
lớn
nhất
thế
giới,
nay
đã
trở
thành
bảo
tàng.
Vẫn
còn
một
số
bộ
phận
của
nhà
máy
hoạt
động,
sản
xuất
một
số
sản
phẩm
cho
các
cửa
hàng
lưu
niệm,
nhưng
phần
lớn
hoạt
động
sản
xuất
bông
đã
được
chuyển
ra
nước
ngoài
để
tận
dụng
lương
lao
động
giá
rẻ.
Nay
một
thay
đổi
lớn
khác
cũng
đang
đe
dọa
làm
thay
đổi
hệ
thống
cấp
bậc
trên
toàn
cầu.
Chất
lượng
cuộc
sống
tại
nhóm
nước
nghèo
đã
nhanh
chóng
áp
dụng
công
nghệ,
kỹ
năng
và
chính
sách
giúp
phương
Tây
giàu
có
đang
biến
đổi
theo
cùng
hướng
tốt
lên.
Trung
Quốc
và
Ấn
Độ
là
2
nền
kinh
tế
mới
nổi
lớn
và
tăng
trưởng
nhanh
nhất,
sự
bùng
nổ
của
các
nền
kinh
tế
mới
nổi
còn
lan
sang
cả
châu
Mỹ
-
Latinh
và
châu
Phi.
Tốc
độ
thống
nhất
đang
tăng
lên.
Nền
kinh
tế
các
nước
giàu
nợ
nần
chồng
chất
như
Mỹ
đã
tăng
trưởng
yếu
kém
suốt
từ
thời
khủng
hoảng
tài
chính.
Nhóm
nền
kinh
tế
mới
nổi,
đã
thoát
khỏi
khủng
hoảng
mà
không
phải
chịu
quá
nhiều
tác
động
xấu,
trong
năm
qua
đã
tăng
trưởng
khá
tốt
trở
lại.
IMF
dự
báo
nhóm
nền
kinh
tế
mới
nổi
sẽ
tăng
trưởng
cao
hơn
nền
kinh
tế
các
nước
giàu
khoảng
4%
trong
cả
năm
nay
và
năm
sau.
Nếu
dự
báo
của
quỹ
chính
xác,
đến
năm
2013,
nhóm
nền
kinh
tế
mới
nổi
(theo
định
nghĩa
của
IMF)
sẽ
đóng
góp
khoảng
hơn
một
nửa
tổng
sản
lượng
của
kinh
tế
toàn
cầu
(tính
theo
ngang
giá
sức
mua).
Một
dấu
hiệu
khác
cho
thấy
sức
mạnh
kinh
tế
đã
chuyển
dời
đó
là
nhà
đầu
tư
dự
báo
về
nhiều
vấn
đề
tại
nền
kinh
tế
các
nước
giàu
nhưng
vẫn
tự
tin
rằng
khủng
hoảng
sẽ
không
xảy
ra
tại
các
nước
mới
nổi.
Nhiều
chuyên
gia
nhìn
thế
giới
nước
giàu
như
cái
gì
đó
cũ
kỹ
lạc
hậu,
nợ
nần
tứ
phía
trong
khi
so
sánh
với
nhóm
nền
kinh
tế
mới
nổi
trẻ,
đầy
năng
lượng
và
có
tỷ
lệ
tiết
kiệm
cao.
Sự
thật
còn
phức
tạp
hơn
thế.
Các
công
ty
đến
từ
nước
mới
nổi
muốn
có
chỗ
đứng
tại
nước
giàu
bởi
môi
trường
kinh
doanh
ở
đây
thân
thiện
hơn
ở
nước
họ.
Thế
nhưng
khi
thế
giới
nước
giàu
không
ngừng
chịu
cú
sốc
tài
chính,
khả
năng
nhóm
nước
này
chịu
khủng
hoảng
lớn
hơn
rất
nhiều.
Cuộc
khủng
hoảng
dưới
chuẩn
tại
Mỹ
đã
biến
thành
một
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
có
đầy
đủ
đặc
điểm
của
một
cuộc
khủng
hoảng
tại
nhóm
nước
đang
phát
triển:
dòng
vốn
lớn
từ
các
ngân
hàng
bị
điều
tiết
kém
gây
ra
sự
bùng
nổ
trên
thị
trường
bất
động
sản.
Hiện
nay
nhóm
nước
mới
nổi
chưa
có
thị
trường
trái
phiếu
nào
đủ
thanh
khoản
và
tin
cậy
để
nhà
đầu
tư
có
thể
tìm
đến
trong
bối
cảnh
căng
thẳng
tăng
cao,
vì
vậy
họ
còn
mỗi
cách
đổ
tiền
vào
trái
phiếu
Bộ
Tài
chính
Mỹ
và
một
vài
nước
phát
triển
khác.
Lựa
chọn
ít
đến
nỗi
mà
ngay
cả
khi
nước
Mỹ
bị
hạ
xếp
hạng
tín
dụng
vào
tháng
8/2011,
nhà
đầu
tư
vẫn
đổ
xô
nhau
mua
trái
phiếu
Bộ
Tài
chính
Mỹ.
Thực
tế,
chính
việc
nhóm
nước
mới
nổi
quá
chuộng
tài
sản
an
toàn
và
thanh
khoản
cao
của
nhóm
nước
phát
triển
đã
gây
ra
chuỗi
khủng
hoảng
tác
động
xấu
đến
nhóm
nước
giàu.
Các
nước
đang
phát
triển
mua
nợ
chính
phủ
của
nước
giàu
(coi
như
công
cụ
trữ
tiền)
như
bảo
hiểm
đối
với
cuộc
khủng
hoảng
trong
tương
lai.
Hàng
loạt
động
thái
mua
khiến
lãi
suất
dài
hạn
giảm
xuống,
tín
dụng
cá
nhân
và
công
bùng
nổ.
Tăng
trưởng
GDP
của
các
nước
giàu
đi
xuống
là
hậu
quả
trực
tiếp
của
thời
kỳ
bùng
nổ
trước,
cảm
giác
sợ
hãi
của
người
sống
tại
các
nước
giàu
ngày
một
lớn
hơn.
Phần
đông
hộ
gia
đình
tại
Mỹ,
Anh
và
nhiều
nơi
khác
buộc
phải
tiết
kiệm
để
giảm
nợ.
Những
ai
còn
tiền
dư,
trong
đó
bao
gồm
các
công
ty,
đang
giữ
chặt
để
ngừa
một
tương
lai
khó
khăn.
Nhiều
công
ty
đa
quốc
gia
đến
từ
các
nước
mới
nổi,
vốn
quen
với
môi
trường
kinh
doanh
khó
khăn
tại
nội
địa,
dường
như
muốn
đầu
tư
vào
thị
trường
các
nước
phương
Tây
hơn
cả
chính
các
công
ty
phương
Tây.
Thịnh
và
suy
Những
người
nào
lớn
lên
ở
Mỹ
và
Tây
Âu
thường
đã
quen
với
quan
niệm
rằng
phương
Tây
thống
trị
kinh
tế
thế
giới.
Mà
cũng
thực
sự
kỳ
cục
khi
một
nhóm
chỉ
khoảng
30
nước
với
một
phần
dân
số
nhỏ
của
thế
giới
lại
nắm
quyền
chỉ
đạo.
Trong
phần
lớn
lịch
sử
của
loài
người,
sức
mạnh
kinh
tế
thường
được
quyết
định
bởi
yếu
tố
nhân
khẩu
học.
Năm
1700,
nền
kinh
tế
lớn
nhất
thế
giới
(sản
xuất
bông
hàng
đầu
thế
giới)
là
Ấn
Độ,
dân
số
165
triệu
người;
sau
đó
đến
Trung
Quốc
138
triệu
người.
8,6
triệu
người
Anh
sản
xuất
chưa
đầy
3%
tổng
sản
lượng
của
toàn
thế
giới.
Ngay
cả
đến
năm
1820,
khi
cuộc
cách
mạng
công
nghiệp
của
Anh
ngày
một
mạnh
mẽ
hơn,
hai
nước
châu
Á
này
vẫn
đóng
góp
hơn
một
nửa
GDP
toàn
cầu.
Khi
công
nghệ
sản
xuất
phát
triển
hơn,
phương
Tây
trở
nên
giàu
có
hơn.
Việc
sản
xuất
được
nhiều
sản
phẩm
với
số
lao
động
ít
hơn
đồng
nghĩa
với
việc
một
nước
nhỏ
có
thể
trở
thành
cường
quốc
kinh
tế.
Đến
năm
1870,
thu
nhập
bình
quân
tại
Anh
cao
gấp
6
lần
so
với
Ấn
Độ
và
Trung
Quốc.
Đến
đầu
Chiến
tranh
Thế
giới
thứ
nhất,
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
tại
Anh
đã
bị
Mỹ
-
cường
quốc
của
thế
kỷ
20
vượt
qua.
Mỹ
vẫn
là
nền
kinh
tế
lớn
nhất
thế
giới,
tuy
nhiên
vị
thế
này
đang
chịu
sức
ép
từ
một
Trung
Quốc
trỗi
dậy.
Sau
năm
1976,
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
tại
Trung
Quốc
chỉ
bằng
5%
so
với
Mỹ.
Ở
thời
điểm
này,
một
người
Ấn
Độ
trung
bình
còn
giàu
hơn
người
Trung
Quốc.
Cả
Trung
Quốc
và
Ấn
Độ
đều
hướng
vào
nội
địa,
tự
tách
rời
họ
khỏi
những
ý
tưởng
và
hàng
hóa
đã
giúp
người
Nhật
cũng
như
nhiều
nền
kinh
tế
châu
Á
khác
giàu
có
hơn.
Kinh
tế
Ấn
Độ,
giống
Trung
Quốc,
cùng
khép
kín.
Phần
lớn
các
ngành
được
bảo
vệ
khỏi
cạnh
tranh
nước
ngoài
bằng
chính
sách
thuế
quan
ngặt
nghèo.
Trung
Quốc
đã
đi
đầu
trong
đổi
mới.
Năm
1978,
Trung
Quốc
chính
thức
mở
cửa
cải
cách
kinh
tế,
Trung
Quốc
thông
thương
nhiều
hơn
với
nước
ngoài,
đón
nhận
công
nghệ
và
đầu
tư
từ
bên
ngoài.
Quá
trình
tự
do
hóa
của
Ấn
Độ
bắt
đầu
muộn
hơn,
vào
năm
1991.
GDP
của
Trung
Quốc
và
Ấn
Độ
hiện
lớn
hơn
nhiều
so
với
giữa
thập
niên
1970.
Tại
cả
hai
nền
kinh
tế,
tốc
độ
tăng
trưởng
GDP
8%
được
coi
như
điều
bình
thường.
Tính
theo
ngang
giá
sức
mua,
mức
sống
trung
bình
tại
Trung
Quốc
tương
đương
khoảng
1/6
và
Ấn
Độ
tương
đương
1/14
của
Mỹ,
tuy
nhiên
khoảng
cách
đang
nhỏ
dần
và
thu
hẹp
nhanh
chóng.
Hơn
thế
nữa,
sự
thống
nhất
đã
lan
ra
cả
bên
ngoài
Ấn
Độ
và
Trung
Quốc.
Chuyên
gia
Arvind
Subramanian
thuộc
viện
Peterson
Institute
for
International
Economics
trong
cuốn
sách“Eclipse:
Living
in
the
Shadow
of
China’s
Economic
Dominance”
đã
chỉ
ra
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
của
75%
các
nước
không
sản
xuất
dầu
lửa
đang
tăng
trưởng
với
tốc
độ
nhanh
hơn
so
với
Mỹ
giai
đoạn
năm
2000
–
2007.
Thời
kỳ
năm
1960
–
2000,
tỷ
lệ
này
chỉ
đạt
29%.
Nhóm
nền
kinh
tế
trên
còn
đang
chơi
trò
“đuổi
bắt”
với
tốc
độ
nhanh
hơn,
tăng
trưởng
GDP
bình
quân
đầu
người
cao
gấp
đôi
tốc
độ
của
4
thập
kỷ
trước
đó.