Trong
ASEAN,
sự
ảnh
hưởng
của
Trung
Quốc
đến
Việt
Nam
là
lớn
nhất.
Mỗi
năm
Việt
Nam
nhập
siêu
từ
Trung
Quốc
hàng
chục
tỷ
USD
và
vẫn
không
ngừng
tăng
lên.
Số
doanh
nghiệp
Việt
Nam
thành
công
tại
Trung
Quốc
là
rất
nhỏ,
trong
khi
hàng
Trung
Quốc
đang
tràn
ngập
thị
trường
Việt
Nam.
Thực
trạng
này
đòi
hỏi
Việt
Nam
phải
có
một
sự
thay
đổi
lớn,
trước
hết
từ
trong
tư
duy.
Để
hiểu
hơn
bức
tranh
toàn
cảnh,
từ
đó
hình
dung
ra
những
giải
pháp
cho
Việt
Nam
trong
làm
ăn
với
Trung
Quốc,
chúng
tôi
xin
giới
thiệu
phần
trao
đổi
với
ông
Vũ
Minh
Khương
(Tiến
sĩ
chính
sách
công,
Thạc
sĩ
Quản
trị
kinh
doanh,
ĐH
Harvard),
người
có
nhiều
năm
theo
sát
và
nghiên
cứu
về
kinh
tế
Việt
Nam.
Thưa
ông,
từ
góc
nhìn
của
một
chuyên
gia
kinh
tế
công
tác
trong
môi
trường
quốc
tế,
ông
nhận
xét
thế
nào
về
mối
quan
hệ
kinh
tế
giữa
Việt
Nam
và
Trung
Quốc?
Để
có
cái
nhìn
rõ
ràng
và
chính
xác
hơn,
tôi
xin
đặt
Việt
Nam
vào
nhóm
ASEAN
–
6,
gồm
các
nước
Indonesia,
Malaysia,
Philippines,
Singapore,
Thái
Lan
và
Việt
Nam,
hiện
chiếm
90%
về
thương
mại
của
ASEAN
và
đem
phân
tích
mối
quan
hệ
về
kinh
tế
với
Trung
Quốc.
Các
số
liệu
nghiên
cứu
cho
thấy,
Trung
Quốc
hiện
đóng
góp
trên
10%
đến
tăng
trưởng
thương
mại
của
các
nước
ASEAN,
nhờ
sự
tăng
trưởng
của
nền
kinh
tế
Trung
Quốc.
Và
sự
ảnh
hưởng
này
bị
nghiêng
về
phía
nhập
khẩu
từ
Trung
Quốc.
Đó
là
bức
tranh
chung
của
mối
quan
hệ
giữa
ASEAN-6
và
Trung
Quốc.
Đi
vào
chi
tiết
thì
trước
hết,
Việt
Nam
là
một
nước
có
độ
hội
nhập
rất
sâu vào
nền
kinh
tế
thế
giới,
khi
tổng
kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
tương
đương
đến
158%
GDP.
Con
số
này
của
thế
giới
chỉ
là
48%,
của
Trung
Quốc
là
55%,
trung
bình
ASEAN-6
là
125%,
trong
khi
ta
chỉ
mới
mở
cửa
từ
năm
1986.
Vì
hội
nhập
sâu
như
vậy,
nền
kinh
tế
Việt
Nam
bị
ảnh
hưởng
rất
lớn
từ
bên
ngoài.
Đây
là
đặc
trưng
rất
quan
trọng
của
Việt
Nam.
Trung
Quốc
là
một
nước
lớn
và
đang
phát
triển
mạnh,
Vì
vậy,
nước
nào
cũng
nhắm
đến
Trung
Quốc,
vạch
chiến
lược,
lên
kế
hoạch
để
khai
thác
cho
được
thị
trường
này.
Trong
bối
cảnh
đó,
rất
ngạc
nhiên
là
Việt
Nam
lại
hơi
lùi
xa.
Việt
Nam
lại
cố
gắng
khai
thác
ở
thị
trường
khác
mà
bỏ
quên
thị
trường
Trung
Quốc
nên
tỷ
trọng
kim
ngạch
xuất
khẩu
qua
Trung
Quốc
có
xu
hướng
giảm
dần
qua
các
năm,
mất
đi
đến
4%
trong
giai
đoạn
2000-2008,
trái
ngược
với
tất
cả
các
nước
trên
thế
giới,
và
kém
nhất
trong
ASEAN-6.
Trong
khi
đó,
Việt
Nam
lại
nhập
khẩu
nhiều
nhất
từ
Trung
Quốc,
dẫn
đến
nhập
siêu
lớn
nhất,
cả
chục
tỷ
USD
mỗi
năm.
Một
con
số
quá
lớn
đối
với
một
nền
kinh
tế
còn
rất
nhỏ
như
Việt
Nam.
Vì
vậy,
trong
nhóm
ASEAN-6
thì
Việt
Nam
đang
bị
ảnh
hưởng
tiêu
cực
lớn
nhất,
càng
ngày
càng
xấu
hơn,
từ
Trung
Quốc
trong
quan
hệ
kinh
tế
và
phát
triển
thương
mại,
dù
Việt
Nam
có
nhiều
thuận
lợi
so
với
các
nước
khác.
Vậy
Việt
Nam
cần
phải
làm
gì
để
cải
thiện
thực
trạng
này?
Theo
tôi,
trước
hết
chúng
ta
phải
thay
đổi
tư
duy
của
chính
mình.
Sau
đó,
với
tư
duy
mới,
chúng
ta
phải
xây
dựng
những
chiến
lược,
ban
hành
những
chính
sách
thích
hợp,
cả
ngắn
hạn
và
dài
hạn,
để
không
chỉ
cải
thiện
quan
hệ
thương
mại
với
Trung
Quốc,
mà
còn
phát
triển
Việt
Nam
nhanh
và
mạnh
trên
phạm
vi
toàn
cầu.
Theo
tôi,
một
con
người,
một
tổ
chức,
hay
một
quốc
gia
có
thể
nằm
ở
một
trong
ba
trạng
thái.
Trạng
thái
thứ
nhất,
người
ta
gọi
là
lệ
thuộc,
trạng
thái
thứ
hai
gọi
là
độc
lập,
trạng
thái
thứ
ba
gọi
là
liên
buộc.
Khi
ta
ở
mức
độ
lệ
thuộc,
thì
con
người
này,
tổ
chức
này,
quốc
gia
này
tiềm
năng
đã
nguy
rồi.
Khi
anh
đang
lệ
thuộc,
thì
anh
luôn
luôn
lo
lắng,
nay
sợ
cái
này,
mai
sợ
cái
kia,
không
thể
quyết
định
được
chuyện
gì.
Độc
lập
là
mức
độ
trung
bình,
và
Việt
Nam
đang
ở
giai
đoạn
này.
Nhưng
quan
trọng
hơn,
muốn
đi
từ
độc
lập
lên
liên
buộc,
yếu
tố
quyết
định
xem
ai
thắng
ai,
và
ai
sẽ
chói
sáng
hơn,
là
anh
có
thể
tự
vượt
lên,
khai
phá
được
toàn
bộ
tiềm
năng
hay
không.
Muốn
làm
được
thì
Việt
Nam
cần
phải
có
một
số
thay
đổi
về
tư
duy.
Thứ
nhất
là
phải
có
tư
duy
cùng
thắng.
Không
được
nghĩ
là
mình
thắng
thì
người
khác
phải
thua,
mà
người
khác
thắng
thì
mình
phải
thắng.
Trung
Quốc
phát
triển
thì
mình
mới
có
thể
phát
triển
theo.
Nếu
họ
rối
loạn,
kiệt
quệ
thì
chúng
ta
sẽ
điêu
đứng.
Điều
thứ
hai
mà
người
VN
chúng
ta
yếu,
chính
là
tư
duy
“cây
thì
là”,
từ
câu
chuyện
một
cái
cây
không
biết
tên
mình
là
gì,
chạy
lên
hỏi
trời.
Ông
trời
đang
nói
“thì
là
…”
thì
cái
cây
tưởng
mình
tên
“thì
là”,
chạy
về
ngay.
Thường
là
mình
biết
một
cái
gì
là
làm
ngay,
chứ
không
chịu
tìm
hiểu
tận
gốc
rễ,
quy
trình,
nên
những
việc
mình
làm
không
bền
vững
và
có
quy
mô
lớn.
Chúng
ta
không
hiểu
rõ
Mỹ
như
thế
nào,
Trung
Quốc
như
thế
nào,
cuối
cùng
chúng
ta
lại
có
những
suy
luận,
lo
lắng
không
đáng
có
và
không
chính
xác.
Điểm
thứ
ba
là
phải
có
cái
tư
duy
cộng
hưởng.
Cộng
hưởng
giữa
DN
này
với
DN
kia
trong
một
hiệp
Hội,
giữa
Việt
Nam
với
thế
giới,
với
Trung
Quốc.
Trong
bối
cảnh
hiện
nay,
muốn
tiềm
năng
trỗi
dậy,
tạo
ra
một
giá
trị
lớn,
một
bước
đột
phá,
thì
phải
biết
cộng
hưởng.
Không
có
dân
tộc
nào
lớn
và
đông
dân
hơn
Trung
Quốc,
và
lại
là
một
thực
thể
rất
phức
tạp.
Lịch
sử
của
họ
kéo
dài
nhiều
nghìn
năm,
nên
rất
phức
tạp
và
nhiều
tầng
nấc.
Thêm
nữa,
Trung
Quốc
là
một
nước
đang
phát
triển
rất
nhanh
chóng,
cho
nên
ngày
mai
lại
khác
hôm
nay,
ngày
hôm
nay
khác
ngày
hôm
qua.
Điều
này
đòi
hỏi
chúng
ta
phải
cập
nhập
thông
tin
đầy
đủ,
thấu
đáo
để
hiểu
về
Trung
Quốc,
cộng
hưởng
với
Trung
Quốc.
Sự
phát
triển
nhanh
chóng
và
mạnh
mẽ
của
Trung
Quốc
là
một
“cơn
sóng
thần”,
một
thời
cơ
vô
giá
cho
VN
có
được
những
bước
đi
khổng
lồ
trong
vòng
mấy
thập
kỷ
tới.
Cưỡi
được
cơn
sóng
thần
này
để
tiến
những
bước
thần
tốc,
hay
bị
chính
con
sóng
này
nhấn
chìm,
phụ
thuộc
vào
việc
chúng
ta
có
tư
duy
đúng
và
có
cách
làm
đúng
hay
không?
Còn
về
phía
doanh
nghiệp,
ông
thấy
cộng
đồng
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đang
gặp
bất
lợi
gì
so
với
các
doanh
nghiệp
Trung
Quốc?
Nói
chuyện
với
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam,
tôi
thấy
rằng
trong
tương
quan
làm
ăn
với
Trung
Quốc
thì
doanh
nghiệp
mình
còn
nhiều
việc
phải
làm.
Những
khó
khăn
nào
cho
doanh
nghiệp
Việt
Nam
trong
nỗ
lực
xuất
khẩu
vào
Trung
Quốc,
trong
làm
ăn
với
đối
tác
Trung
Quốc
nói
ra
thì
rất
nhiều.
Trước
hết
là
họ
có
độ
sâu
và
độ
nhạy
hơn hẳn
ta.
Làm
ăn
với
ai,
họ
cũng
tìm
hiểu
kỹ
về
đối
tác
đó,
tìm
hiểu
cả
văn
hóa
của
nước
đó.
Họ
có
chiến
lược,
bài
bản
rõ
ràng.
Còn
khi
họ
thấy
được
thương
hiệu
của
ta
bán
được
trên
thị
trường
đó
thì
họ
đã
đăng
kí
thương
hiệu
tại
chính
quyền
của
họ.
Mình
lại
không
biết,
thì
đến
lúc
mình
chuẩn
bị
làm
thương
hiệu
thì
đã
xong
hết
rồi.
Chúng
ta
lại
dựa
vào
xúc
cảm
nhiều
quá,
trong
khi
khả
năng
phân
tích,
đánh
giá
chưa
được
tập
trung
hình
thành
và
mài
sắc.
Nếu
xúc
cảm
cứ
hiện
hữu
trong
đầu
thì
rất
khó
thành
công
lớn,
nhiều
khi
quyết
định
này
nọ
trong
kinh
doanh
chỉ
là
do
thói
quen
chứ
không
do
phải
là
do
phân
tích
lợi
hay
hại
gì.
Sau
đó
là
sự
hỗ
trợ
chính
sách.
Tôi
rất
thông
cảm
với
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
vì
tôi
đã
trải
qua
rồi,
môi
trường
vĩ
mô
như
là
những
cái
cầu
cứ
chông
chênh
như
vậy,
thì
doanh
nghiệp
có
làm
gì
thì
cũng
bị
say
sóng.
Nhà
nước
thì
chỉ
cho
những
viên
thuốc
say
sóng
nên
cũng
không
ăn
thua.
Trong
kinh
tế
đối
ngoại,
Việt
Nam
phải
có
tổng
tham
mưu.
Vì
vậy
vai
trò
của
Nhà
nước,
của
những
hiệp
hội
là
rất
quan
trọng,
tập
hợp
và
định
hướng
nguồn
lực
của
các
doanh
nghiệp
trong
nước.
Hiện
nay,
chúng
ta
như
là
đàn
kiến
nhưng
mỗi
con
lại
tha
đi
một
hướng,
nên
nguồn
lực
bị
phân
tán,
không
làm
nên
chuyện
lớn
được.
Thị
trường
Trung
Quốc
rất
đa
dạng,
như
có
mấy
chục
nước
trong
đó
chứ
không
phải
chỉ
có
một,
nên
có
mấy
chục
loại
thị
trường
khác
nhau.
Các
doanh
nghiệp
phải
xác
định
mình
nằm
ở
mức
độ
nào,
rồi
hẵng
quyết
định
làm
ăn
với
Trung
Quốc.
Có
5
câu
hỏi
mà
doanh
nghiệp
cần
phải
trả
lời
khi
muốn
làm
ăn
với
Trung
Quốc.
Một
là
Trung
Quốc
có
nhu
cầu
lớn
với
sản
phẩm
của
mình
hay
không,
trong
hiện
tại
và
tương
lai.
Hai
là
bản
thân
mình
có
cảm
thấy
hứng
thú
với
thị
trường
nay
hay
không,
vì
có
rất
nhiều
thị
trường
khác
chứ
không
phải
chỉ
cảm
thấy
hứng
thú
với
tại
Trung
Quốc
thôi.
Tiếp
theo
là
phải
đánh
giá
được
khả
năng
cạnh
tranh
của
sản
phẩm
mình.
Thứ
tư
là
nguồn
lực
của
mình
có
đủ
hay
không.
Và
cuối
cùng
là,
mình
sẽ
chọn
địa
bàn
nào,
mặt
trận
nào
trong
thị
trường
rộng
lớn
và
đa
dạng
như
Trung
Quốc.
Xin
cám
ơn
ông
!