"Lựa
chọn
ngược"
và
việc
sử
dụng
đồng
vốn
chưa
hiệu
quả
là
những
nguy
cơ
với
ngân
hàng.
Kinh
tế
còn
nhiều
khó
khăn,
các
doanh
nghiệp
kêu
than
bởi
khó
tiếp
cận
tín
dụng,
lãi
suất
cho
vay
cao.
Trong
khi
đó
các
ngân
hàng
liên
tục
công
bố
những
khoản
lợi
nhuận
lên
đến
hàng
ngàn
tỷ.
Lợi
nhuận
cao
là
tất
yếu
Để
kiểm
soát
lạm
phát
NHNN
buộc
phải
áp
dụng
chính
sách
tiền
tệ
thắt
chặt.
Chính
sách
thắt
chặt
tiền
tệ
có
một
độ
trễ
nhất
định
và
tạo
cơ
hội
cho
các
NHTM
tận
dụng.
Khi
đó
với
lãi
suất
huy
động
tăng
lên
vừa
phải,
thì
lãi
suất
ra
đã
được
các
NH
đẩy
lên
mức
rất
cao.
“Đây
là
khoảng
thời
gian
của
độ
trễ
chính
sách
nên
chênh
lệch
lãi
suất
lớn.
Các
ngân
hàng
chắc
chắn
sẽ
tận
dụng
để
thu
lợi
nhuận
”-
Ông
Nguyễn
Xuân
Thành,
Giám
đốc
chương
trình
Fullbright
nhận
xét.
Cùng
với
đó
lợi
nhuận
lớn
của
các
ngân
hàng
được
hỗ
trợ
từ
những
biện
pháp
hành
chính
được
áp
dụng
trong
thời
gian
qua.
Với
quy
định
áp
trần
lãi
suất
huy
động,
các
NHTM
có
lợi
thế
đàm
phán
lãi
suất
với
những
người
gửi
tiền
nhỏ
lẻ.
Tuy
nhiên
với
lãi
suất
cho
vay
thì
NHTM
được
phép
thỏa
thuận
dẫn
đến
mức
chênh
lệch
lãi
suất
cao
hơn
mức
bình
thường.
Thông
thường
chênh
lệch
lãi
suất
đầu
vào
–
ra
của
ngân
hàng
chỉ
3-4%
nhưng
hiện
tại
mức
chênh
lệch
này
lên
đến
5-6
%.
Có
cùng
quan
điểm
là
chuyên
gia
kinh
tế
Huỳnh
Thế
Du.
Ông
Du
cho
rằng
chính
sách
đã
vô
tình
tạo
ra
lợi
thế
đàm
phán
cho
các
NHTM.
Ông
Du
nhận
định:
“Ngân
hàng
có
thể
hét
lãi
suất
cao
chưa
hẳn
bởi
chi
phí
vốn
cao
đến
mức
đó
mà
nằm
ở
cầu
tín
dụng
rất
cao.
Chính
cầu
tín
dụng
cao,
cung
hạn
chế
tạo
cùng
với
yêu
cầu
trần
huy
động
tạo
cho
NHTM
lợi
thế
đám
phán
lãi
suất
với
cả
người
đi
gửi
và
người
vay”.
Rủi
ro
đến
từ
lợi
nhuận
Như
nguyên
lý
kinh
tế
thông
thường,
lợi
nhuận
lớn
luôn
đi
kèm
với
gia
tăng
rủi
ro.
Trước
tiên
chính
là
rủi
ro
“lựa
chọn
ngược”,
một
vấn
đề
kinh
điển
của
hoạt
động
tài
chính
ngân
hàng.
“Khi
lãi
suất
lên
cao
chỉ
có
những
người
đầu
tư
rủi
ro
mới
dám
đi
vay.
Như
vậy
khả
năng
mất
vốn
sẽ
cao,
ngân
hàng
thấy
rủi
ro
mất
vốn
tăng
lên
cũng
sẽ
tiếp
tục
tăng
lãi
suất.
Dẫn
đến
càng
làm
tăng
rủi
ro
cho
khoản
vay”-
ông
Du
đánh
giá.
Vòng
quay
rủi
ro
và
lợi
nhuận
sau
khi
trải
qua
nhiều
lần
sẽ
cho
1
hình
tháp
mà
tại
đỉnh
sẽ
chỉ
gồm
những
khoản
vay
rủi
ro
cao.
Đây
có
thể
là
nguy
cơ.
Nợ
xấu
tiềm
ẩn
Khi
rủi
ro
tín
dụng
tăng
lên
thì
cũng
là
lúc
những
khoản
nợ
xấu
được
bộc
lộ.
Nhìn
lại
vào
tổng
tín
dụng
của
nền
kinh
tế
có
thể
thấy
một
nghịch
lý.
Theo
ước
tính
của
cơ
quan
quản
lý
thì
hiện
nay
tổng
tín
dụng
toàn
xã
hội
bằng
120%
GDP,
nhưng
các
doanh
nghiệp
luôn
trong
tình
trạng
thiếu
vốn.
Nghịch
lý
này
được
giải
thích
bởi
sự
tiềm
ẩn
của
“nợ
xấu”
trong
nền
kinh
tế.
“Tín
dụng
bơm
vào
nền
kinh
tế
được
sử
dụng
không
hiệu
quả.
Các
doanh
nghiệp
đầu
tư
nhưng
khoản
thu
về
không
đủ
bù
đắp
khoản
nợ
nên
phải
tiếp
tục
đi
vay
để
trả
cho
những
khoản
vay
trước
đó”-
ông
Du
chia
sẻ.
Theo
ông
Du
thì
các
quốc
gia
thường
có
tỷ
lệ
tổng
tín
dụng
chỉ
bằng
50-70%
GDP
nhưng
với
kinh
tế
Việt
Nam
tỷ
lệ
này
gấp
2
lần.
Có
thể
thấy
rằng
một
lượng
lớn
tín
dụng
đã
chuyển
thành
nợ
không
thể
luân
chuyển.
Chính
nợ
không
luân
chuyển
này
sẽ
chuyển
thành
nợ
xấu
của
ngân
hàng.
Như
vậy
các
ngân
hàng
sẽ
phải
có
trích
lập
dự
phòng
hợp
lý
hơn.
Tuy
nhiên
ông
Thành
cho
rằng
mức
độ
trích
dự
phòng
rủi
ro
nhiều
ngân
hàng
theo
báo
cáo
tài
chính
quý
II/2011
là
chưa
đủ.
“Nếu
như
trích
dự
phòng
rủi
ro
nhiều
hơn,
đầy
đủ
hơn
thì
chắc
chắn
lợi
nhuận
sẽ
giảm
đi
nhiều”,
ông
Thành
nhận
xét.
Thời
điểm
tế
nhị
và
lựa
chọn
khó
khăn
Các
ngân
hàng
phải
báo
cáo
lợi
nhuận
cao
cũng
bởi
sức
ép
từ
giá
trị
cổ
phiểu
ngân
hàng
thời
gian
qua
đã
xuống
mức
thấp
do
TTCK
suy
giảm.
Nếu
báo
cáo
lợi
nhuận
không
tốt
thì
càng
khiến
giá
trị
cổ
phiếu
đi
xuống,
kéo
theo
đó
là
giá
trị
của
các
ngân
hàng.
Ông
Thành
cho
rằng
bấy
lâu
nay
giá
trị
của
các
NHTM
ở
Việt
Nam
chính
là
tốc
độ
tăng
trưởng.
Nếu
tốc
độ
này
chậm
lại
thì
cổ
phiếu
ngân
hàng
sẽ
kém
hấp
dẫn
đi
rất
nhiều
trong
con
mắt
nhà
đầu
tư.
Tuy
nhiên
chính
việc
công
bố
lợi
nhuận
cao
từ
các
ngân
hàng
cũng
nhận
được
đánh
giá
thiếu
thiện
cảm
từ
cộng
đồng
doanh
nghiệp.
T.S
Lê
Đăng
Doanh
đánh
giá
đây
là
thời
điểm
“tế
nhị
và
khó
khăn”
đối
với
cả
NHTM
và
doanh
nghiệp.
Về
lâu
dài
nếu
doanh
nghiệp
không
trả
được
nợ
và
không
vay
vốn
nữa
thì
NHTM
cũng
không
thể
phát
triển
một
cách
bền
vững.
“Theo
tôi
việc
siết
chặt
tín
dụng
không
nên
thực
hiện
theo
hướng
cào
bằng.
Cần
cấp
tín
dụng
cho
doanh
nghiệp
kinh
doanh
hiệu
quả,
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
được,
duy
trì
được
công
ăn
việc
làm”-
TS
Doanh
đề
xuất.
Mối
quan
hệ
giữa
NHTM
và
DN
là
mối
quan
hệ
hữu
cơ
qua
lại.
Lợi
nhuận
ngân
hàng
có
cao,
tăng
trưởng
có
bền
vững
dựa
trên
nền
tảng
doanh
nghiệp
tốt,
hoạt
động
hiệu
quả,
trả
nợ
đúng
hạn.
Nếu
như
lợi
nhuận
bắt
nguồn
từ
tận
dụng
những
lợi
thế
từ
chính
sách
hay
do
sự
khó
khăn
của
doanh
nghiệp
thì
sẽ
đi
kèm
với
nhiều
rủi
ro.