"...
Tôi
mong
người
dân
tỉnh
táo
hơn
và
biết
kiềm
chế
mình.
Dưới
góc
độ
kinh
tế,
ai
cũng
biết
chẳng
thể
làm
gì
mà
lại
có
lãi
7%
–
8%
một
tháng..."
Trong
vòng
nửa
tháng
vừa
qua,
tại
nhiều
tỉnh
thành
phố
đã
xảy
ra
hàng
loạt
vụ
vỡ
nợ
hàng
chục
thậm
chí
hàng
trăm
tỷ
đồng.
Để
hiểu
được
vấn
đề
này
một
cách
rõ
ràng
hơn,
phóng
viên
Báo
Giáo
dục
Việt
Nam
đã
có
buổi
trao
đổi
với
chuyên
gia
kinh
tế
Phạm
Chi
Lan
về
một
số
vấn
đề
tài
chính
đang
tồn
tại
trong
nền
kinh
tế
của
Việt
Nam.
Vỡ
nợ
là
điển
hình
của
sự
thiếu
minh
bạch
Trong
nửa
tháng
vừa
qua,
liên
tiếp
xảy
ra
các
vụ
vỡ
nợ
lớn,
bà
có
nhận
định
gì
về
các
vụ
vỡ
nợ
này?
Chuyên
gia
Phạm
Chi
Lan:
Tôi
thấy
đó
là
những
việc
rất
xấu.
Nó
thể
hiện
nhiều
điều
ở
nước
ta.
Một
là:
trong
quan
hệ
kinh
doanh
có
nhiều
người
tham
tiền,
tham
lãi
cao.
Một
phần,
họ
quá
tin
tưởng
ở
một
cá
nhân
nào
đó
đứng
ra
huy
động
tiền
mà
không
có
sự
giám
sát
chặt
chẽ
hoặc
không
có
thông
tin
đầy
đủ.
Thành
ra
họ
bị
rơi
vào
vòng
xoáy
của
việc
huy
động
tiền
như
vậy
và
kết
quả
là
họ
bị
lừa.
Về
khía
cạnh
luật
pháp,
sự
lỏng
lẻo
của
pháp
luật
đã
không
tính
được
hết
các
tình
huống
phòng
bị
chuyện
đó
cho
người
dân.
Đặc
biệt
là
hệ
thống
thông
tin
đã
không
giúp
người
cho
vay
có
thể
thẩm
định
được
những
người
đứng
ra
vay
mượn
trên
cơ
sở
pháp
lý
nào,
những
điểm
pháp
luật
đảm
bảo,
mức
độ
tín
nhiệm
cá
nhân,
mối
quan
hệ
của
người
ta
với
các
tổ
chức
hoặc
người
ta
có
thể
dựa
vào
danh
nghĩa
của
tổ
chức
này,
tổ
chức
khác
để
huy
động
vốn
của
những
người
khác.
Tất
cả
những
việc
đó
đã
trực
tiếp
gây
thiệt
hại
tới
những
người
rơi
vào
vòng
xoáy
của
việc
huy
động
tiền.
Những
vụ
vỡ
nợ
này
chắc
chắn
sẽ
gây
ra
những
thiệt
hại
cho
một
số
người
nhất
định
và
“dắt
dây”
nhau
thì
có
thể
làm
tổn
hại
cho
những
người
khác
nữa
thậm
chí
còn
cho
cả
xã
hội
nói
chung.
Tôi
nghĩ
điều
cần
phải
lưu
ý
nhất
ở
nước
ta
hiện
nay
là:
người
dân
có
một
thói
quen
là
dựa
quá
nhiều
trên
những
mối
quan
hệ
cá
nhân
và
thường
đằng
sau
những
cá
nhân
đó
là
bóng
dáng
của
ai
đó,
tổ
chức
nào
đó
làm
chỗ
dựa
để
họ
tạo
niềm
tin
cho
người
khác
để
huy
động
tiền.
Họ
nghĩ
các
mối
quan
hệ
với
ông
nọ
bà
kia,
với
tổ
chức
này,
tổ
chức
khác
sẽ
làm
họ
có
uy
tín
rất
lớn.
Và
bản
thân
họ
cũng
hay
chìa
ra
những
văn
bản,
hợp
đồng
giả
mạo
đó
để
chứng
minh
cho
ý
kiến
của
mình.
Nếu
trong
các
mối
quan
hệ
xã
hội,
nhất
là
các
mối
quan
hệ
kinh
tế
mà
cứ
dựa
vào
các
chỗ
thân
quen,
các
thế
lực
thì
đó
sẽ
là
điều
rất
tệ
khiến
xã
hội
không
phát
triển
được.
Ngoài
ra
còn
do
sự
thiếu
minh
bạch
trong
lĩnh
vực
kinh
tế
cũng
như
trong
các
lĩnh
vực
khác.
Điều
này
dễ
gây
ra
những
tổn
thất.
Các
vụ
vỡ
nợ
vừa
qua
điển
hình
cho
sự
thiếu
minh
bạch
về
thông
tin
về
các
đối
tác
làm
ăn
trong
xã
hội.
"Lòng
tham
làm
cho
nhiều
người
bị
mờ
mắt"
PV:
Ngoài
những
hậu
quả
cho
các
cá
nhân
thì
những
hậu
quả
đối
với
nền
kinh
tế
vĩ
mô
sẽ
như
thế
nào,
thưa
bà?
Ngoài
những
tổn
hại
cho
những
cá
nhân
trực
tiếp
cho
vay
kia,
các
vụ
vỡ
nợ
còn
gây
hại
cho
nền
kinh
tế
của
đất
nước.
Đáng
lẽ
ra
thay
vì
đem
gửi
tiền
vào
túi
những
người
đó
để
ham
lấy
lãi
suất
cao
thì
người
dân
có
thể
đưa
vào
ngân
hàng,
dù
lãi
suất
thấp
nhưng
độ
an
toàn
cao
hơn
nhiều.
Điều
này
giúp
cho
các
ngân
hàng
huy
động
được
lượng
vốn
còn
tồn
đọng
trong
xã
hội
để
đưa
vào
hoạt
động
sản
xuất,
kinh
doanh
phục
vụ
cho
nền
kinh
tế.
Đồng
thời
việc
đó
còn
góp
phần
vào
các
doanh
nghiệp
vừa
và
nhỏ
đang
thiếu
vốn
nghiêm
trọng.
Trong
nông
nghiệp,
người
nông
dân
cũng
đang
thiếu
vốn.
Nếu
đầu
tư
vào
sản
xuất
kinh
doanh
thì
sản
xuất
kinh
doanh
sẽ
phát
triển,
nền
kinh
tế
sẽ
bớt
đi
khó
khăn
như
hiện
nay.
Nếu
người
dân
thay
vì
cho
vay
với
lãi
suất
cao
thì
đưa
tiền
vào
những
“kênh”
có
lợi
nhuận
thấp
hơn
nhưng
an
toàn
hơn,
có
mức
lãi
suất
kém
hấp
dẫn
hơn
so
với
những
lời
chào
mời
ở
bên
ngoài.
Điều
này
có
lợi
ích
kinh
tế,
lợi
ích
xã
hội
lớn
nhiều
so
với
cho
vay
lãi
cao
ở
bên
ngoài.
Tuy
nhiên,
nhiều
người
vì
ham
lợi
ích
riêng
cho
mình
chạy
theo
lời
mời
lãi
suất
cao
của
một
số
cá
nhân
đã
bị
thiệt
hại
những
điều
nàycũng
ảnh
hưởng
tới
nền
kinh
tế
của
đất
nước.
Theo
dự
báo
của
các
ngân
hàng,
các
tổ
chức
nghiên
cứu,
lượng
vốn
còn
tồn
đọng
trong
dân
rất
nhiều.
Cũng
một
phần
vì
mấy
năm
gần
đây,
niềm
tin
của
nhiều
người
dân
với
các
ngân
hàng
cũng
như
thị
trường
chứng
khoán
không
cao
nên
những
người
ham
tiền
thì
họ
chạy
theo
lời
mời
gọi
lãi
suất
cao
ngắn
hạn
mà
rủi
ro
cao.
Lòng
tham
của
mỗi
người
đã
làm
họ
mờ
mắt.
Cách
đây
20
năm
đã
xảy
ra
những
vụ
vỡ
nợ
"khủng"
nhưng
đến
giờ
vẫn
nhiều
người
bị
mắc
phải.
Cần
phát
triển
hệ
thống
ngân
hàng…
Bà
nhận
định
gì
khi
liên
tiếp
xảy
ra
các
vụ
vỡ
nợ
trong
nửa
tháng
vừa
qua
đều
xảy
ra
tại
Hà
Nội
–
một
trung
tâm
kinh
tế
quan
trọng
của
cả
nước?
Không
phải
chỉ
có
ở
TP.
Hà
Nội
mà
TP
Hồ
Chí
Minh
cùng
một
số
tỉnh
khác
cũng
có…
Một
số
người
có
thế
lực
nào
đó
để
bấu
víu
vào
đấy
hoặc
là
thực
tế
họ
không
có,
nhưng
họ
mượn
danh
để
họ
huy
động
theo
cách
đó.
Tiếc
rằng
ở
Hà
Nội
lại
khá
nhiều.
Những
gì
xảy
ra
trong
thời
gian
gần
đây
có
lẽ
thể
hiện
sự
phát
triển
thị
trường
ở
Hà
Nội
yếu
và
tính
minh
bạch
kém,
không
có
các
kênh
thông
tin
để
làm
cho
người
dân
yên
tâm
khi
đưa
tiền
vào
kinh
doanh.
Theo
tôi,
đó
có
lẽ
là
lỗi
đầu
tiên
.
Hàng
loạt
các
vụ
vỡ
nợ
cùng
diễn
ra
trong
khoảng
thời
gian
ngắn
liệu
có
phải
là
dấu
hiệu
báo
hiệu
hồi
kết
cho
1
chu
kỳ
tín
dụng
đen
hay
không?
Không
thể
nói
thế
được
bởi
vì
đây
là
một
hiện
tượng
tách
bạch
với
hệ
thống
ngân
hàng
nhà
nước
và
hệ
thống
tín
dụng
chính
thức
của
nhà
nước.
Còn
về
hồi
kết
của
một
chu
kỳ
suy
thoái
kinh
tế
thì
có
lẽ
phải
xem
ngân
hàng
nhà
nước
ra
tay
sắp
xếp,
chỉnh
lại
các
ngân
hàng
thương
mại
thì
mới
rõ.
Và
đó
mới
là
điều
quan
trọng
đối
với
toàn
bộ
nền
kinh
tế.
Xin
bà
có
thể
“hiến
kế”
để
xử
lý
tận
gốc
vấn
đề
này…
Tôi
nghĩ
cách
tích
cực
nhất
là
phát
triển
hệ
thống
ngân
hàng,
hệ
thông
tài
chính
một
cách
lành
mạnh,
công
khai,
minh
bạch
hơn.
Trong
đó
có
sự
công
bằng
các
bên
tham
gia.
Có
như
thế
mới
tạo
được
niềm
tin
đối
với
họ
khi
tham
gia
vào
cuộc
chơi
chung
do
nhà
nước
đưa
ra
luật
chơi.
Trong
trường
hợp
đó,
đa
phần
người
dân
sẽ
bỏ
tiền
vào
hệ
thống
đó
thay
vì
đi
tìm
những
nguồn
bên
ngoài.
Ngoài
ra
còn
phải
tạo
môi
trường
kinh
doanh
phát
triển
các
ngành
nghề
để
thu
hút
hơn
nữa
nguồn
vốn
đầu
tư…
Bà
có
cho
rằng
các
vụ
vỡ
nợ
xuất
phát
từ
của
hoạt
động
mua
bán
bất
động
sản
“quá
nóng”
để
rồi
khi
thị
trường
này
đóng
băng
thì
nguồn
vốn
không
thể
thu
hồi
dẫn
vỡ
nợ?
Theo
tôi
có
thể
có
liên
quan
ở
chỗ
nhiều
người
nghi
ngờ
khi
huy
động
vốn
để
mua
đất.
Nhưng
đến
lúc
thị
trường
bất
động
sản
đóng
băng,
họ
không
bán
được
mà
đến
thời
hạn
phải
trả
nợ
thì
họ
tìm
cách
đi
vay
các
nguồn
khác
bên
ngoài
nhà
nước
để
lấy
tiền
trả.
Tuy
nhiên,
khi
thị
trường
bất
động
sản
chưa
ra
khỏi
tình
trạng
đóng
băng
thì
họ
không
có
cách
gì
để
trả.
Một
khía
cạnh
khác
có
thể
là
từ
việc
ngân
hàng
cho
vay
để
kinh
doanh
bất
động
sản
và
chứng
khoán.
Sau
đó
thì
ngân
hàng
đòi
nợ
dẫn
đến
việc
những
người
đó
ra
ngoài
huy
động
vốn
của
những
người
xung
quanh.
Có
một
điều
là
vì
các
đối
tượng
vay
xong
rồi
bỏ
trốn
hết
nên
chưa
thể
xác
định
chính
xác
nguyên
nhân
sâu
xa
là
gì…
Theo
bà,
trong
thời
gian
tới
đây,
chúng
ta
sẽ
còn
được
chúng
kiến
nhiều
vụ
vỡ
nợ
tiếp
theo
?
Tôi
không
nói
trước
được
là
sẽ
có
những
vụ
vỡ
nợ
tiếp
theo
xảy
ra.
Vì
những
vụ
này
phần
nhiều
người
ta
làm
ăn
một
cách
kín
đáo
riêng
với
nhau,
không
bộc
lộ
cho
xã
hội
biết.
Chỉ
khi
nào
vỡ
nợ,
người
vay
bỏ
trốn
thì
mới
biết.
Nhưng
tôi
sợ
có
thể
còn
nhiều
vì
ba
điều
sau:
Thứ
nhất
là
lòng
tham
của
con
người
vô
hạn,
người
ta
cứ
muốn
kiếm
tiền
nhiều
nhất
bằng
cách
đơn
giản
trong
thời
gian
ngắn.
Mà
những
người
như
vậy
nhiều
khi
vì
ham
mà
quên
đi
mất,
rủi
ro
luôn
chực
sẵn
họ.
Thứ
hai
là
sự
minh
bạch
trong
hệ
thống
tài
chính
của
chúng
ta.
Thứ
ba
là
thói
quen
dựa
trên
các
quan
hệ
cá
nhân
nên
nó
sẽ
còn
là
cơ
sở
cho
sự
huy
động
vốn,
chạy
chọt.
Tôi
mong
người
dân
tỉnh
táo
hơn
và
biết
kiềm
chế
mình.
Dưới
góc
độ
kinh
tế,
ai
cũng
biết
chẳng
thể
làm
gì
mà
lại
có
lãi
7%
–
8%
một
tháng.
Khi
nào
mọi
người
còn
ham
tiền
đó
cùng
với
sự
tin
tưởng
những
lời
hứa
mật
ngọt
thì
còn
những
vụ
vỡ
nợ
tiếp
theo.