Sau
4
năm
Việt
Nam
là
thành
viên
chính
thức
của
Tổ
chức
Thương
mại
thế
giới
(WTO),
đến
nay
là
thời
điểm
cần
nhìn
nhận
lại
những
tác
động
của
việc
gia
nhập
này
đến
nông
nghiệp
nước
ta,
từ
đó
góp
phần
tạo
căn
cứ
cho
việc
điều
chỉnh
chính
sách
nông
nghiệp
phù
hợp
với
lộ
trình
cam
kết
WTO
và
hạn
chế
những
tác
động
nghịch
của
quá
trình
này.
Những
tác
động
đối
với
ngành
nông
nghiệp
sau
4
năm
Việt
Nam
gia
nhập
WTO
Tác
động
đến
tăng
trưởng
ngành
Tăng
trưởng
giá
trị
sản
xuất
nông
nghiệp
(SXNN)
diễn
ra
với
tỷ
lệ
từ
5%
đến
6%/năm,
giảm
còn
3,5%
vào
năm
2009,
tiếp
đó
tăng
lên
tới
4,7%
năm
2010;
tăng
trưởng
GDP
của
ngành
thấp
hơn
và
cũng
thất
thường,
từ
3%
đến
4%.
Sự
thay
đổi
về
tốc
độ
tăng
trưởng
nông
nghiệp
trong
4
năm
qua
cho
thấy,
sau
gia
nhập
WTO
sản
xuất
nông
nghiệp
tăng
giảm
thất
thường
trong
điều
kiện
những
thay
đổi
trong
nước
theo
các
cam
kết
WTO
chưa
thật
mạnh
mẽ.
Điều
này
phản
ánh
sự
lệ
thuộc
mạnh
của
nông
nghiệp
Việt
Nam
vào
thị
trường
thế
giới
trong
điều
kiện
định
hướng
xuất
khẩu
sản
phẩm
nông
sản
đã
mở
rộng
nhanh
trong
những
năm
vừa
qua,
đồng
thời
cho
thấy
tác
động
của
gia
nhập
WTO
đến
nông
nghiệp
mang
tính
hai
mặt,
cả
tích
cực
và
tiêu
cực.
Tác
động
đến
xuất
khẩu
nông
sản
Giá
trị
xuất
khẩu
nông
sản
của
Việt
Nam
đã
tăng
khá
mạnh
trong
4
năm
qua,
đặc
biệt
ở
những
sản
phẩm
có
lợi
thế
cạnh
tranh,
nhưng
chủ
yếu
là
các
sản
phẩm
gạo,
cà
phê,
cao
su,
hạt
điều,
hạt
tiêu,
rau
quả...
trong
khi
sản
phẩm
chăn
nuôi
hầu
như
chưa
xuất
khẩu.
Điều
này
phản
ánh
tác
động
thuận
hay
nghịch
của
gia
nhập
WTO
phụ
thuộc
rất
nhiều
vào
chính
năng
lực
sản
xuất
và
khả
năng
cạnh
tranh
của
các
sản
phẩm
nông
nghiệp.
Chẳng
hạn,
giá
trị
xuất
khẩu
gạo
năm
2009
(đạt
gần
2,7
tỉ
USD)
đã
tăng
gấp
đôi
so
với
năm
2007,
trong
khi
khối
lượng
xuất
khẩu
tăng
gần
22%,
năm
2010
còn
đạt
cao
hơn
là
3,2
tỉ
USD.
Kết
quả
này
khẳng
định
gia
nhập
WTO
đã
tác
động
tích
cực
tới
xuất
khẩu
gạo,
cơ
bản
do
giá
gạo
trên
thị
trường
quốc
tế
tăng
mạnh
từ
cuối
năm
2007
và
đầu
năm
2008
và
xuất
khẩu
gạo
của
Việt
Nam
đã
tận
dụng
được
cơ
hội
này(1).
Còn
xuất
khẩu
cà
phê
trong
các
năm
2006,
2007
và
2008
không
thay
đổi
nhiều
về
giá
trị
và
khối
lượng,
phản
ánh
việc
gia
nhập
WTO
đã
ảnh
hưởng
không
nhiều
đến
xuất
khẩu
sản
phẩm
này.
Với
thế
mạnh
của
mình,
sản
phẩm
cà
phê
vẫn
trụ
vững
trên
thị
trường,
nhưng
không
tăng
hơn
nữa
cả
về
khối
lượng
và
giá
trị
như
lúa
gạo.
Tương
tự,
việc
thực
hiện
các
cam
kết
về
giảm
thuế
nhập
khẩu
và
tự
do
hóa
thị
trường
cao
su
đã
không
ảnh
hưởng
xấu
tới
sản
xuất
và
xuất
khẩu
cao
su
nguyên
liệu
của
Việt
Nam.
Tác
động
đến
hoạt
động
sản
xuất
trong
nước
Đối
với
hoạt
động
trồng
trọt:
-
Về
diện
tích,
trong
4
năm
qua
diện
tích
các
loại
cây
trồng
có
định
hướng
xuất
khẩu
hoặc
phục
vụ
nhu
cầu
thiết
yếu
của
người
tiêu
dùng
trong
nước
đều
tăng
lên,
như
rau,
quả,
cây
công
nghiệp
ngắn
ngày
tăng
khoảng
2%
-
4%/năm;
cây
công
nghiệp
lâu
năm
tăng
80
nghìn
héc-ta
trong
2
năm
2008
-
2009.
Hình
thành
rõ
rệt
hơn
các
vùng
sản
xuất
tập
trung
phù
hợp
với
yêu
cầu
sinh
học
của
các
loại
cây
ăn
quả,
như
vải,
bưởi,
sầu
riêng,
na,
xoài,
thanh
long...
và
đã
bước
đầu
ứng
dụng
công
nghệ
tiên
tiến,
thực
hiện
Việt
GAP
và
global
GAP...
-
Về
sản
lượng,
trong
4
năm
qua,
sản
lượng
các
loại
cây
trồng
có
thị
trường
tiêu
thụ
tốt,
như
cà
phê,
cao
su,
chè,
điều
đã
tăng
nhanh.
-
Những
cây
trồng
có
định
hướng
phục
vụ
cho
các
ngành
công
nghiệp
chế
biến
nông
sản
thay
thế
nhập
khẩu
không
tăng,
thậm
chí
giảm.
Đó
là
mía
đường,
bông
thuộc,
cây
thức
ăn
cho
gia
súc...
Những
cây
trồng
này
đã
bị
giảm
cả
về
diện
tích
và
sản
lượng
trong
điều
kiện
Nhà
nước
đã
duy
trì
các
chính
sách
hỗ
trợ
mạnh.
Đối
với
chăn
nuôi:
Nhóm
sản
phẩm
chăn
nuôi
gặp
rất
nhiều
khó
khăn
do
dịch
bệnh,
điều
kiện
thời
tiết
những
năm
qua
và
giá
thức
ăn
chăn
nuôi
tăng
cao...
Vì
vậy,
tỷ
trọng
chăn
nuôi
trong
giá
trị
SXNN
chỉ
tăng
từ
24,5%
(năm
2006)
lên
30%
(năm
2009);
số
đầu
gia
súc
không
tăng,
gia
cầm
tăng,
các
sản
phẩm
trứng,
sữa
tăng
nhẹ.
Đối
với
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp:
Tác
động
của
việc
gia
nhập
WTO
đến
hoạt
động
này
là
không
đáng
kể
và
bản
thân
hoạt
động
này
có
quy
mô
rất
nhỏ,
chưa
tận
dụng
được
những
lợi
thế
từ
việc
gia
nhập
WTO.
Có
thể
nói
rằng,
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp
đã
và
đang
là
điểm
hạn
chế
của
ngành
nông
nghiệp
Việt
Nam
những
năm
qua,
chưa
thể
hiện
vai
trò
tích
cực
đối
với
trồng
trọt
và
chăn
nuôi,
chưa
góp
phần
tích
cực
vào
quá
trình
nâng
cao
năng
suất
lao
động
trong
nông
nghiệp,
mặc
dù
gia
nhập
WTO
đã
tạo
ra
những
cơ
hội
lớn
để
gia
tăng
hoạt
động
dịch
vụ
trong
toàn
nền
kinh
tế.
Tác
động
mở
rộng
thị
trường
sản
phẩm
nông
nghiệp
Mở
rộng
thị
trường
xuất
khẩu:
Sau
4
năm
gia
nhập
WTO
ngành
nông
nghiệp
Việt
Nam
đã
mở
rộng
xuất
khẩu,
với
kim
ngạch
xuất
khẩu
tăng
24%/năm,
đạt
16.475
triệu
USD
vào
năm
2008,
tuy
năm
2009
lại
bị
giảm.
Nhiều
mặt
hàng
nông
sản
đã
gia
tăng
thị
phần
và
chiếm
vị
thế
cao,
như
hạt
điều,
hạt
tiêu
chiếm
vị
trí
thứ
nhất,
lúa
gạo,
cà
phê
đứng
thứ
hai,
cao
su
đứng
thứ
tư,
chè
đứng
thứ
năm
và
thủy
sản
đứng
thứ
bảy
trong
nhóm
các
nước
xuất
khẩu
những
sản
phẩm
này.
Năm
2009,
đã
có
5
mặt
hàng
đạt
kim
ngạch
xuất
khẩu
trên
1
tỉ
USD
là
gạo,
cà
phê,
cao
su,
thủy
sản,
đồ
gỗ
(trong
khi,
năm
2005
chỉ
có
3
mặt
hàng
là
gạo,
thủy
sản
và
đồ
gỗ).
Cán
cân
xuất
nhập
khẩu
nông
nghiệp
những
năm
qua
là
dương,
trong
khi
cán
cân
xuất
nhập
khẩu
của
toàn
nền
kinh
tế
là
âm.
Sản
phẩm
nông
sản
xuất
khẩu
không
ngừng
mở
rộng
về
thị
trường
và
chủng
loại.
Mở
rộng
thị
trường
tiêu
thụ
trong
nước:
Thị
trường
nông
sản
nội
địa
đã
và
đang
được
mở
rộng
giữa
các
vùng,
miền
cả
về
số
lượng,
chủng
loại
và
mẫu
mã.
Các
doanh
nghiệp
thương
mại
nỗ
lực
đưa
hàng
hóa
nông
sản
chế
biến
về
tiêu
thụ
tại
vùng
nông
thôn
để
kích
cầu
tiêu
dùng
và
chiếm
lĩnh
thị
trường
nông
thôn
trong
nước
trước
khi
các
công
ty
nước
ngoài
mở
rộng
hoạt
động
về
nông
thôn.
Những
thay
đổi
về
diện
tích,
sản
lượng
và
giá
trị
nông
nghiệp
trong
4
năm
qua
phản
ánh
tác
động
của
gia
nhập
WTO
về
cơ
bản
là
tích
cực,
tạo
cơ
sở
thực
tiễn
cho
việc
định
hình
một
cơ
cấu
SXNN
phù
hợp
với
nhu
cầu
của
thị
trường
trong
và
ngoài
nước,
phát
huy
cao
nhất
lợi
thế
tự
nhiên
của
các
vùng
sinh
thái,
trên
cơ
sở
đó
có
thể
thiết
kế
các
chính
sách
phát
triển
nông
nghiệp
phù
hợp
theo
ngành
sản
phẩm
và
theo
vùng
sản
xuất.
Tuy
nhiên,
cũng
cần
thấy
rằng
cơ
cấu
SXNN
hiện
nay
chưa
ổn
định,
bộc
lộ
nhiều
hạn
chế.
Những
hạn
chế
cơ
bản
của
sản
xuất
nông
nghiệp
hiện
nay
Cơ
cấu
sản
xuất
nông
nghiệp
bất
hợp
lý.
Cơ
cấu
sản
phẩm
nông
nghiệp
chưa
phù
hợp
với
nhu
cầu
thị
trường
và
với
khai
thác
sử
dụng
có
hiệu
quả
các
nguồn
tài
nguyên
đất
và
nước
cho
sản
xuất.
Tính
phân
tán
cao.
Năng
suất,
chất
lượng
cây
trồng,
vật
nuôi
còn
thấp.
Chưa
hình
thành
được
các
chuỗi
giá
trị
nông
sản
mạnh
và
bền
vững.
Các
yếu
tố
khách
quan
và
chủ
quan
đối
với
việc
tạo
dựng
và
phát
triển
chuỗi
giá
trị
nông
sản
hàng
hóa
còn
rất
sơ
khai,
chưa
hình
thành
đầy
đủ;
phổ
biến
tình
trạng
thiếu
cơ
chế
liên
kết
hữu
cơ
giữa
SXNN
với
chế
biến,
đóng
gói
và
tiêu
thụ
các
loại
nông
sản;
chính
sách
khuyến
khích
sản
xuất
và
tiêu
thụ
nông
sản
thông
qua
hợp
đồng
theo
quy
định
tại
Quyết
định
số
80/2002/QĐ-TTg
ngày
24-6-2002
của
Thủ
tướng
Chính
phủ
chưa
đủ
mạnh
để
tạo
ra
những
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
nông
dân
với
các
doanh
nghiệp
và
các
tổ
chức
kinh
doanh
nông
nghiệp.
Các
chính
sách
hỗ
trợ
phát
triển
sản
xuất
trong
nước
chưa
tạo
động
lực
đủ
mạnh
để
khắc
phục
tình
trạng
yếu
kém
của
SXNN
hiện
nay.
Cụ
thể:
-
Chính
sách
đất
nông
nghiệp
chưa
hướng
tới
củng
cố
các
vùng
SXNN
tập
trung,
chưa
thúc
đẩy
tạo
ra
các
đơn
vị
sản
xuất
quy
mô
lớn;
-
Chính
sách
hỗ
trợ
về
thuế,
cước
vận
chuyển,
các
loại
phí
chưa
được
áp
dụng
đầy
đủ
và
chưa
hấp
dẫn
các
nhà
đầu
tư
bỏ
vốn
vào
kinh
doanh
trong
lĩnh
vực
nông
nghiệp;
-
Chính
sách
tín
dụng
ưu
đãi
về
mức
vốn
vay,
điều
kiện
cho
vay,
thời
gian
vay
chưa
linh
hoạt
để
hỗ
trợ
đắc
lực
cho
sản
xuất
hàng
hóa
quy
mô
lớn(2);
-
Chính
sách
đầu
tư
cũng
chưa
đủ
lớn
để
tạo
ra
kết
cấu
hạ
tầng
đáp
ứng
yêu
cầu
phát
triển
SXNN
hàng
hóa
quy
mô
lớn,
nhất
là
kết
cấu
hạ
tầng
ở
các
vùng
sản
xuất
tập
trung
cây
công
nghiệp,
cây
ăn
quả,
các
vùng
chăn
nuôi
đại
gia
súc...
-
Chính
sách
phát
triển
nguồn
nhân
lực
nông
nghiệp
chậm
triển
khai,
bị
coi
nhẹ
làm
cho
nguồn
nhân
lực
nông
nghiệp
không
đáp
ứng
được
yêu
cầu
của
sản
xuất
hiện
đại,
có
tính
hợp
tác
và
tuân
thủ
nghiêm
túc
các
quy
định
về
vệ
sinh
an
toàn
thực
phẩm
theo
các
cam
kết
của
WTO;
-
Chính
sách
khoa
học
và
công
nghệ
nông
nghiệp
chưa
đủ
tầm
tác
động
nâng
cao
năng
suất,
chất
lượng
và
sức
cạnh
tranh
của
sản
phẩm
nông
nghiệp.
Nhiều
ngành
sản
phẩm
nông
nghiệp
như
chè,
dâu
tằm,
rau,
quả,
chăn
nuôi
gia
cầm,
lợn
thiếu
công
nghệ
có
sức
cạnh
tranh
về
giống,
quy
trình
canh
tác,
thu
hoạch...
làm
hạn
chế
việc
nâng
cao
giá
trị
gia
tăng.
Những
yếu
kém
khác
-
Ngành
công
nghiệp
chưa
hướng
vào
phục
vụ
các
nhu
cầu
về
máy
móc,
trang
thiết
bị
phù
hợp,
có
năng
suất
lao
động
cao
trong
nông
nghiệp.
Phần
lớn
trang
thiết
bị
sau
thu
hoạch,
chế
biến
nông
sản
phải
nhập
khẩu
với
giá
cao
và
không
có
dịch
vụ
hướng
dẫn
sử
dụng,
bảo
hành,
gây
nhiều
khó
khăn
cho
người
SXNN.
-
Chưa
hình
thành
hệ
thống
kiểm
soát
chất
lượng
nông
sản
và
vật
tư
nông
nghiệp
để
tạo
ra
thị
trường
nông
sản
và
vật
tư
nông
nghiệp
lành
mạnh.
Tình
trạng
tồn
đọng
dư
lượng
thuốc
bảo
vệ
thực
vật,
thuốc
kháng
sinh
cấm
sử
dụng
trong
nông
sản
hàng
hóa
và
tình
trạng
vật
tư
nông
nghiệp
có
hại,
không
có
hướng
dẫn
sử
dụng
được
nhập
khẩu
tự
do
đang
tồn
tại
phổ
biến,
gây
ra
nhiều
khó
khăn,
bức
xúc
đối
với
cả
người
SXNN
và
người
tiêu
dùng
về
tình
trạng
hàng
giả,
hàng
kém
phẩm
chất,
không
bảo
đảm
yêu
cầu
về
chất
lượng
và
an
toàn
cho
sức
khỏe.
Những
biến
động
bất
lợi
trên
thị
trường
thế
giới
đối
với
nông
nghiệp
Việt
Nam
-
Tình
hình
kinh
tế
thế
giới
hiện
nay
không
ổn
định
và
những
nguy
cơ
khủng
hoảng,
suy
thoái
chưa
bị
loại
trừ
triệt
để
sẽ
tiếp
tục
gây
ra
những
biến
động
bất
lợi
cho
sản
xuất
và
xuất
khẩu
nông
sản
của
Việt
Nam.
Với
mức
độ
mở
cửa
cao
của
SXNN
Việt
Nam,
bất
kỳ
biến
động
nào
trên
thị
trường
thế
giới
đều
có
thể
ảnh
hưởng
nhanh
và
trực
tiếp
đến
các
hoạt
động
SXNN,
nhất
là
các
ngành
có
sản
phẩm
xuất
khẩu.
-
Xu
hướng
bảo
hộ
và
thắt
chặt
các
hàng
rào
phi
thuế
quan
ở
các
nước
nhập
khẩu,
như:
chống
bán
phá
giá,
xây
dựng
hàng
rào
kỹ
thuật
ngày
càng
cao
và
tinh
vi
tại
các
thị
trường
có
sức
mua
lớn
cũng
sẽ
tiếp
tục
tác
động
mạnh
đối
với
sản
xuất
và
xuất
khẩu
nông
sản
của
Việt
Nam.
-
Giá
nhiên
liệu,
vật
tư
"đầu
vào"
biến
động
theo
hướng
tăng
mạnh
sẽ
tiếp
tục
gây
tổn
thất
đối
với
SXNN
vốn
đã
chịu
rủi
ro
cao
về
thiên
tai,
dịch
bệnh
và
lợi
nhuận
thấp.
-
Việc
gia
nhập
WTO
trong
điều
kiện
các
yếu
tố
cơ
bản
của
sản
xuất
trong
nước
như
tài
nguyên,
nhân
lực
và
vốn
liếng
còn
rất
phân
tán
và
chưa
được
chuẩn
bị
kỹ
càng
đã
và
sẽ
tiếp
tục
đặt
ra
những
thách
thức
to
lớn
hơn
đối
với
nông
nghiệp
trong
những
năm
tới.
Đặc
biệt,
rất
cần
sự
chuẩn
bị
cùng
hợp
tác,
cố
kết
giữa
nông
dân
với
các
doanh
nghiệp
và
tổ
chức
kinh
doanh
nông
nghiệp
để
cùng
nhau
vượt
qua
thách
thức
ngày
càng
lớn
hơn
trong
hội
nhập
sâu
rộng
hơn,
bởi
vì,
chính
sách
hỗ
trợ
của
Chính
phủ
không
thể
giải
quyết
hết
được
những
vấn
đề
của
sản
xuất
nhỏ,
phân
tán
trong
nông
nghiệp.
Tiếp
tục
điều
chỉnh
các
chính
sách,
biện
pháp
đối
với
nông
nghiệp
những
năm
tới
Một
số
định
hướng
chính
sách
chung
đối
với
nông
nghiệp
Thứ
nhất,
tiếp
tục
thực
hiện
các
cam
kết
về
cắt
giảm
thuế
nhập
khẩu
đúng
lịch
trình
đi
đôi
với
triển
khai
các
biện
pháp
giúp
người
SXNN
phòng
ngừa
rủi
ro.
Theo
đó,
cần
đưa
ra
các
biện
pháp
phòng
ngừa
tác
động
xấu
khi
các
mức
thuế
nhập
khẩu
mới
được
áp
dụng
theo
cam
kết.
Thứ
hai,
chú
trọng
các
biện
pháp,
chính
sách
mang
mục
tiêu
dài
hạn
có
tác
động
nâng
cao
chất
lượng
nông
sản
hàng
hóa,
hình
thành
các
chuỗi
giá
trị
nông
sản
mạnh
tại
các
vùng
SXNN
tập
trung.
Thứ
ba,
triển
khai
biện
pháp
thích
hợp
với
điều
kiện
chủ
quan
của
nông
dân
Việt
Nam
để
phát
triển
nguồn
nhân
lực
nông
nghiệp
vừa
có
tri
thức
tốt
về
kiến
thức
nông
học,
vừa
có
năng
lực
tốt
về
hợp
tác,
liên
kết
cùng
nhau
trong
sản
xuất
và
trong
phối
hợp
với
doanh
nghiệp,
các
tổ
chức
kinh
doanh
sản
phẩm
nông
nghiệp
trong
chuỗi
giá
trị
nông
sản,
khép
kín
quá
trình
sản
xuất,
chế
biến
và
tiêu
thụ
nông
sản.
Thứ
tư,
thực
hiện
chiến
lược
nâng
cao
hiểu
biết,
năng
lực
và
trách
nhiệm
của
cán
bộ
quản
lý
nhà
nước
về
nông
nghiệp
ở
các
cấp,
nhất
là
ở
cấp
huyện
và
cấp
xã
để
bảo
đảm
đúng
chức
năng
cung
cấp
dịch
vụ
cho
hoạt
động
sản
xuất,
kinh
doanh
của
các
hộ
nông
dân,
các
doanh
nghiệp,
các
tổ
chức
kinh
tế
khác
trên
địa
bàn,
bảo
đảm
cho
việc
thực
hiện
các
cam
kết
WTO
của
Việt
Nam
và
các
chính
sách
của
Nhà
nước
đối
với
nông
nghiệp
được
triển
khai
đầy
đủ
và
đúng
tới
các
đối
tượng
thuộc
diện
điều
chỉnh
và
hưởng
lợi.
Định
hướng
chính
sách
nâng
cao
năng
lực
hội
nhập
WTO
của
các
ngành
sản
phẩm
nông
nghiệp
Đối
với
các
ngành
sản
phẩm
trồng
trọt,
cần
thực
hiện
tốt
các
biện
pháp
sau:
Một
là,
tập
trung
nguồn
lực
để
đẩy
nhanh
chuyển
dịch
cơ
cấu
cây
trồng
theo
nguyên
tắc
hiệu
quả
và
đúng
lợi
thế
cạnh
tranh.
Phát
triển
các
ngành
sản
phẩm
trồng
trọt
hàng
hóa
quy
mô
lớn
và
tập
trung
cao,
áp
dụng
khoa
học
-
công
nghệ
mới
để
tạo
ra
sản
phẩm
có
chất
lượng
cao.
Hai
là,
tăng
cường
các
biện
pháp
kiểm
soát
dịch
bệnh
cây
trồng
để
nâng
cao
năng
suất
và
chất
lượng
nông
sản.
Ba
là,
hình
thành
các
thể
chế
liên
kết
trong
nội
bộ
từng
chuỗi
giá
trị
ngành
sản
phẩm
trồng
trọt
theo
từng
vùng
sản
xuất
tập
trung.
Chú
trọng
các
chuỗi
đang
vận
hành
ở
các
vùng
sản
xuất
sản
phẩm
xuất
khẩu
quan
trọng
như
gạo,
cà
phê,
cao
su,
chè,
điều,
rau
quả.
Đối
với
ngành
sản
phẩm
chăn
nuôi:
Một
là,
cụ
thể
hóa
các
chính
sách,
biện
pháp
khuyến
khích
phát
triển
các
trang
trại
và
cơ
sở
chăn
nuôi
hàng
hóa
lợn,
gia
cầm
theo
phương
pháp
công
nghiệp,
bán
công
nghiệp
với
quy
mô
lớn
hơn
và
yêu
cầu
áp
dụng
triệt
để
các
biện
pháp
an
toàn
dịch
bệnh.
Hai
là,
áp
dụng
công
nghệ
tiên
tiến
trong
tuyển
chọn,
lai
tạo
giống
vật
nuôi
bản
địa
với
giống
nhập
khẩu,
bảo
đảm
tạo
đàn
gia
súc,
gia
cầm
có
năng
suất,
chất
lượng
thịt
cao.
Ba
là,
quy
hoạch
lại
hệ
thống
chế
biến
thức
ăn
về
gần
các
vùng
chăn
nuôi
tập
trung,
quy
mô
lớn,
tạo
thị
trường
thức
ăn
chăn
nuôi
phát
triển,
đáp
ứng
được
về
khối
lượng
và
thời
điểm
theo
nhu
cầu
của
chăn
nuôi;
thực
hiện
chính
sách
hỗ
trợ
sản
xuất
thức
ăn
chăn
nuôi
trong
nước
bằng
nguồn
nguyên
liệu
tại
chỗ,
bảo
đảm
đủ
chất
dinh
dưỡng
và
không
pha
trộn
các
chất
tăng
trọng
bị
cấm;
thiết
lập
hệ
thống
kiểm
tra
chất
lượng
sản
phẩm
của
các
cơ
sở
chế
biến
thức
ăn
chăn
nuôi,
bảo
đảm
thức
ăn
cho
gia
súc,
gia
cầm
đúng
tiêu
chuẩn
nhà
nước;
bố
trí
đủ
diện
tích
sản
xuất
cây
nguyên
liệu
chế
biến
thức
ăn
gia
súc,
sử
dụng
các
giống
cỏ
năng
suất,
chất
lượng
cao.
Bốn
là,
tăng
cường
năng
lực
hoạt
động
phòng
và
chữa
bệnh
cho
gia
súc,
gia
cầm
của
hệ
thống
thú
y
cơ
sở
bảo
đảm
chủ
động
phòng,
chống
các
loại
dịch
bệnh,
hướng
dẫn
nông
dân
thực
hiện
an
toàn
gia
súc,
gia
cầm.
Năm
là,
nâng
cấp
quy
mô
và
chất
lượng
các
cơ
sở
giết
mổ,
chế
biến
thịt
gắn
với
chăn
nuôi
tập
trung,
có
trang
thiết
bị
hiện
đại,
đạt
yêu
cầu
về
vệ
sinh
an
toàn
thực
phẩm.
Sáu
là,
tăng
cường
kiểm
tra
nhập
khẩu
các
sản
phẩm
chăn
nuôi,
kiểm
soát
vận
chuyển
trong
nước,
kiên
quyết
xử
lý
các
sản
phẩm
chăn
nuôi
vi
phạm
luật
pháp.
Đối
với
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp:
Thứ
nhất,
Chính
phủ
ban
hành
các
quy
định
điều
chỉnh
các
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp
theo
đúng
cơ
chế
thị
trường
có
sự
bảo
đảm
của
bên
cung
ứng
với
bên
sử
dụng,
ban
hành
các
chế
tài
mạnh
xử
lý
trường
hợp
vi
phạm
quy
định
đối
với
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp.
Thứ
hai,
tổ
chức
lại
công
tác
quản
lý
nhà
nước
đối
với
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp
ở
Trung
ương
và
địa
phương,
bảo
đảm
quản
lý
hữu
hiệu
các
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp.
Thứ
ba,
điều
chỉnh
một
phần
vốn
ODA
dành
cho
nông
nghiệp,
nông
thôn
để
đầu
tư
vào
các
hạng
mục
hạ
tầng
cho
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp.
Thứ
tư,
chú
trọng
xây
dựng
các
hạng
mục
hạ
tầng
về
kho
tàng,
bến
bãi
và
cửa
hàng,
cơ
sở
phân
phối
hàng
hóa,
vật
tư
nông
nghiệp
trên
địa
bàn
trồng
trọt,
chăn
nuôi
tập
trung.
Thứ
năm,
thúc
đẩy
phát
triển
các
hoạt
động
dịch
vụ
tập
thể
trong
nông
nghiệp,
chú
trọng
vai
trò
các
hợp
tác
xã,
liên
hiệp
hợp
tác
xã,
tổ
hợp
tác
nông
nghiệp.
Khuyến
khích
thành
lập
hiệp
hội
các
nhà
cung
ứng
máy
và
vật
tư,
tư
liệu
sản
xuất
nông
nghiệp,
hình
thành
các
quy
chế
hợp
đồng
lành
mạnh
và
hiệu
quả
trong
hoạt
động
dịch
vụ
nông
nghiệp./.
--------------------------------------------
(1)
Giá
gạo
10%
tấm
của
Việt
Nam
tăng
từ
305
USD/
tấn
năm
2007
lên
590
USD
/tấn
trong
6
tháng
đầu
năm
2008
-
tăng
94%
(nguồn:
Báo
cáo
thường
niên
nông
nghiệp
2008
và
triển
vọng
2009
-
Agroinfo)
(2)
Các
chính
sách
này
hiện
đang
tranh
cãi
trong
WTO,
vì
làm
méo
mó
hoạt
động
thương
mại
quốc
tế
trong
hệ
thống
các
nước
thành
viên,
nhưng
Việt
Nam
vẫn
được
phép
áp
dụng