Có
một
nghịch
lý
đang
diễn
ra
ở
Trung
Đông,
đó
là
việc
công
dân
của
các
nước
có
ít
hoặc
không
có
dầu
mỏ
lại
tự
do
hơn
công
dân
ở
nước
nhiều
dầu
mỏ.
Giới
học
giả
đã
gọi
điều
này
là
lời
nguyền
của
dầu
lửa,
lập
luận
rằng
sự
giàu
có
từ
dầu
lửa
dẫn
tới
sự
cửa
quyền,
bất
ổn
kinh
tế,
tham
nhũng
và
xung
đột
bạo
lực.
Những
bí
mật
bẩn
thỉu
của
dầu
mỏ
Cho
đến
đầu
những
năm
1970,
các
nước
sản
xuất
dầu
lửa
cũng
có
dân
chủ
như
bất
cứ
quốc
gia
nào
khác.
Trớ
trêu
là
bởi
cho
tới
thời
điểm
đó,
cái
gọi
là
Bảy
Chị
Em
(Seven
Sisters,
một
nhúm
các
công
ty
dầu
lửa
khổng
lồ
của
phương
Tây),
đang
thống
trị
ngành
công
nghiệp
dầu
lửa
toàn
cầu
và
thu
hầu
hết
lợi
nhuận
vào
túi
của
họ.
Điều
đó
có
nghĩa
là
so
với
các
chính
phủ
của
những
nước
chẳng
có
dầu,
chính
phủ
của
các
nước
có
nhiều
dầu
lửa
không
có
thêm
tiền
và
cũng
chẳng
có
thêm
quyền
đối
với
các
công
dân
của
họ.
Tuy
nhiên,
từ
những
năm
1960
và
đầu
những
năm
1970,
mọi
thứ
bắt
đầu
thay
đổi.
Đầu
tiên,
cái
gọi
là
Bảy
Chị
Em
đã
mất
quyền
kiểm
soát
đối
với
thị
trường
dầu
lửa
toàn
cầu
do
sự
nổi
lên
của
các
công
ty
dầu
độc
lập
như
Getty
Oil,
Standard
Oil
of
Ohio
và
của
công
ty
dầu
nhà
nước
Italia,
Eni.
Trong
khi
đó,
các
nước
sản
xuất
dầu
đã
cùng
nhau
thành
lập
Tổ
chức
các
nước
Xuất
khẩu
Dầu
lửa
(OPEC),
điều
đã
giúp
tăng
cường
ảnh
hưởng
của
họ
đối
với
các
công
ty
dầu
lửa
mới
và
cũ.
Những
diễn
tiến
này,
cùng
với
lệnh
cấm
vận
dầu
lửa
của
khối
Arab
sau
cuộc
chiến
tranh
Israel
–
Arap
năm
1973,
đã
khiến
giá
dầu
lửa
tăng
từ
2,5
USD/thùng
vào
năm
1972
lên
12
USD
thùng
vào
năm
1974.
Háo
hức
nhằm
giành
lấy
những
của
trời
cho,
hầu
hết
tất
cả
các
nước
đang
phát
triển
đều
sung
công
các
công
ty
dầu
lửa
nước
ngoài
đang
hoạt
động
trên
lãnh
thổ
của
họ
và
thành
lập
các
công
ty
dầu
quốc
gia
để
quản
lý
chúng.
Việc
quốc
hữu
hoá
này
đã
đem
lại
cho
họ
lượng
của
cải
khổng
lồ
mới
và
rất
phổ
biến,
những
tài
sản
sản
này
đã
đem
lại
sự
nghiệp
cho
nhiều
nhà
chính
trị.
Ngay
sau
khi
lên
nắm
quyền
trong
một
cuộc
đảo
chính
quân
sự
vào
năm
1969,
Đại
tá
Muammar
Gaddafi
đã
bắt
đầu
quốc
hữu
hoá
ngành
công
nghiệp
dầu
lửa
của
Libya,
điều
này
đã
giúp
ông
ta
kiểm
soát
được
nguồn
thu
nhập
khổng
lồ.
Gaddafi
sau
đó
lại
dùng
tiền
từ
dầu
đề
tài
trợ
cho
chương
trình
cách
mạnh
của
ông
ta
và
mua
những
người
đứng
đầu
các
bộ
lạc
lớn,
những
người
có
thể
là
một
mối
đe
doạ
tới
quyền
lực
của
ông
ta.
Kiến
trúc
sư
của
việc
quốc
hữu
hoá
ngành
dầu
của
Iraq
là
Phó
Chủ
tịch
Hội
đồng
Chỉ
huy
Cách
mạnh,
Saddam
Hussein.
Vai
trò
nổi
bật
của
Saddam
trong
việc
thu
lại
các
lợi
ích
dầu
lửa
của
quốc
tế
chính
là
con
đường
dẫn
tới
sự
nổi
tiếng
của
ông
ta.
Và
việc
Saddam
kiểm
soát
được
dòng
tiền
dầu
lửa
cuối
cùng
đã
giúp
ông
ta
đánh
bật
Ahmad
Hasan
al-Bakr,
và
trở
thành
tổng
thống
của
Iraq.
Việc
quốc
hữu
hoá
đã
giúp
chính
phủ
của
các
nước
xuất
khẩu
dầu
lửa
trở
nên
giàu
hơn
và
hùng
mạnh
hơn
bao
giờ
hết.
Sự
giàu
có
và
quyền
lực
kinh
tế
một
thời
do
các
tập
đoàn
nước
ngoài
nắm
giữ
lúc
này
đã
được
chuyển
giao
cho
các
nhà
chính
trị.
Những
người
cầm
quyền
ở
khắp
khu
vực
này
sử
dụng
một
số
tài
sản
có
được
từ
dầu
để
tài
trợ
cho
các
chương
trình
xã
hội
nhằm
cải
thiện
các
dịch
vụ
công
cộng
và
lấy
lòng
dân
chúng
của
họ.
Điều
đó
đã
giúp
họ
sống
sót
trong
làn
sóng
dân
chủ
hoá
khắp
toàn
cầu
vào
những
năm
1980
và
những
năm
1990
vốn
làm
sụp
đổ
một
loạt
những
nhà
độc
tài
khác.
Kể
từ
đó,
việc
kiểm
soát
nguồn
thu
từ
dầu
mỏ
đã
giúp
các
nhưng
kẻ
chuyên
quyền
tiếp
tục
nắm
quyền
theo
ba
cách
chính.
Thứ
nhất,
nó
cho
phép
họ
mua
công
dân
của
mình
thông
qua
việc
cung
cấp
cho
họ
nhiều
lợi
ích
mà
hầu
như
không
phải
chịu
thuế.
Quan
hệ
giữa
thuế
và
sự
đại
diện
luôn
rất
gần
gũi:
khi
các
nhà
cầm
quyền
muốn
tăng
thuế,
người
dân
đòi
giải
trình.
Trong
thời
nước
Mỹ
còn
là
thuộc
địa,
những
người
dân
thất
vọng
đã
nổi
lên
chống
lại
Vương
quốc
Anh
một
phần
là
do
họ
phải
trả
thuế
dù
họ
không
được
đại
diện
trong
quốc
hội
Anh.
Tại
Trung
Đông
ngày
nay,
phản
ứng
đặc
thù
của
các
lãnh
đạo
được
sự
tài
trợ
của
dầu
trước
những
đòi
hỏi
đòi
trách
nhiệm
nhiều
hơn
của
người
dân
là
cung
cấp
cho
họ
những
khoản
“bố
thí”
mới,
hạ
thấp
thuế
hoặc
sử
dụng
cả
hai
và
điều
này
thường
có
hiệu
quả.
Chỉ
riêng
trong
năm
2011,
Algeria
đã
công
bố
các
kế
hoạch
đầu
tư
156
tỉ
USD
cho
các
chương
trình
cơ
sở
hạ
tầng
mới
và
cắt
giảm
thuế
đường.
Saudi
Arabia
bỏ
trực
tiếp
ra
136
tỉ
USD
để
phục
vụ
cho
việc
tăng
lương
trong
lĩnh
vực
công,
hỗ
trợ
nhà
cửa
và
trợ
cấp
thất
nghiệp.
Kuwait
thì
tặng
cho
mỗi
công
dân
một
chiếc
ôtô
trị
giá
1.000
dinar
(khoảng
3.600
USD)
và
cung
cấp
lương
thực
miễn
phí
trong
14
tháng.
Các
lãnh
đạo
độc
tài
có
ít
hoặc
không
có
tiền
từ
dầu
lửa
như
Zine
el-Abidine
Ben
Ali,
Hosni
Mubarak
tại
Ai
Cập
và
Ali
Abdullah
Saleh
ở
Yemen
cũng
có
những
hành
động
tương
tự,
nhưng
các
hứa
hẹn
của
họ
nhỏ
hơn
nhiều
và
do
đó
ít
hiệu
quả.
Thứ
hai,
những
kẻ
độc
tài
thâu
tóm
hầu
hết
tiền
từ
các
ngành
dầu
lửa
quốc
gia
cảm
thấy
dễ
dàng
hơn
trong
việc
giữ
bí
mật
về
tài
chính
của
đất
nước.
Bí
mật
giúp
đem
lại
cho
tài
sản
thu
từ
dầu
lửa
sự
dân
chủ
bởi
người
dân
chỉ
hài
lòng
với
việc
phải
trả
thuế
thấp
và
những
lợi
ích
hào
phóng
khi
họ
không
nắm
được
có
bao
nhiêu
tài
sản
của
đất
nước
họ
đã
bị
đánh
cắp,
bị
tham
nhũng
và
bị
mất
do
quản
lý
kém.
Dưới
thời
của
cố
Tổng
thống
Saddam,
hơn
một
nửa
ngân
sách
quốc
gia
của
Iraq
do
Công
ty
Dầu
lửa
Quốc
gia
Iraq
cung
cấp,
nguồn
tài
chính
này
không
bao
giờ
được
tiết
lộ.
Một
cuộc
khảo
sát
do
Đối
tác
Ngân
sách
Quốc
tế
tiến
hành
vào
năm
2010
cho
thấy
các
nhà
độc
tài
có
ít
hoặc
không
có
dầu
lửa
tại
Trung
Đông
như
Ai
Cập,
Gordan
và
Morocco
đã
công
khai
một
số
thông
tin
về
tình
hình
tài
chính
của
họ.
Ngược
lại,
tại
những
quốc
gia
độc
tài
nhiều
dầu
lửa
như
Algeria,
Saudi
Arabia
không
hề
tiết
lộ
bất
cứ
điều
gì
liên
quan
tới
tài
chính.
Nên
nhớ
rằng
các
cuộc
cách
mạng
tại
Ai
Cập
và
Tunisia
đã
bùng
nổ
bởi
nhận
thức
ngày
một
gia
tăng
của
người
dân
về
tình
trạng
tham
nhũng
trong
chính
phủ.
Cuối
cùng,
nguồn
thu
từ
dầu
lửa
đã
cho
phép
các
nhà
độc
tài
tài
trợ
một
cách
hào
phóng
và
mua
sự
trung
thành
của
các
lực
lượng
vũ
trang.
Ví
dụ,
Tổng
thống
Iran
Mahmoud
Ahmadinejad
đã
cung
cấp
hàng
tỉ
USD
trong
các
hợp
đồng
không
qua
đấu
thầu
cho
các
nhà
kinh
doanh
có
liên
quan
tới
Lực
lượng
Vệ
binh
cách
mạng
tinh
nhuệ
của
nước
này.
Trên
toàn
cầu,
các
nhà
độc
tài
không
có
nguồn
thu
từ
dầu
chi
khoảng
2%
GDP
của
đất
nước
cho
quân
đội
của
họ,
trong
khi
ở
đất
nước
của
các
nhà
độc
tài
nhiều
dầu
lửa,
vốn
đã
có
ngân
sách
lớn
hơn
nhiều,
lại
thường
bỏ
ra
tới
3%.
Ví
dụ,
đất
nưới
ít
dầu
lửa
Tunisia
năm
2008
đã
chi
53USD
trên
một
đầu
người
cho
lực
lượng
vũ
trang,
trong
khi
ở
nước
láng
giềng
Algeria,
đã
chi
tới
141
USD/đầu
người
cho
lực
lượng
này
và
có
ít
cuộc
biểu
tình
hơn
nhiều
so
với
Tunisia.
Một
số
nước
sản
xuất
dầu
lửa
lớn
nhất
thế
giới,
bao
gồm
Oman,
Saudi
Arabia
và
Tiểu
vương
quốc
Arap
thống
nhất,
cũng
là
những
nước
chi
lớn
nhất
cho
quân
đội.
Dầu
có
nhấn
chìm
Mùa
Xuân
Arab
Không
có
bất
cứ
điều
nào
trong
số
những
vấn
đề
trên
đồng
nghĩa
với
việc
rằng
dầu
lửa
sẽ
nhấn
chìm
được
Mùa
Xuân
Arab
hay
các
nước
dầu
lửa
ở
Trung
Đông
phải
chịu
số
phận
chế
độ
độc
tài.
Trong
12
năm
qua,
các
nước
Indonesia,
Mexico,
Nigeria,
tất
cả
đã
chuyển
đổi
thành
công
sang
nền
dân
chủ.
Tất
cả
các
nước
này
đều
có
dầu.
Nhưng,
đối
với
Trung
Đông,
điều
đó
sẽ
không
dễ
dàng.
Indonesia,
Mexico
và
Nigeria
chỉ
là
những
nước
sản
xuất
dầu
mỏ
trung
bình,
và
cả
ba
nước
đều
đã
mở
cửa
chính
trị
vào
những
năm
1999-
2000,
ngay
sau
khi
giá
dầu
xuống
đến
mức
thấp
nhất
trong
gần
30
năm.
Trên
thực
tế,
quốc
gia
cuối
cùng
có
tương
đối
nhiều
dầu
mỏ
đã
chuyển
đổi
thành
công
sang
nền
dân
chủ
là
Venezuela,
và
đó
là
vào
năm
1958.
Venezuela
được
lợi
từ
thực
tế
rằng
nước
này
có
một
lịch
sử
cầm
quyền
dân
chủ
và
một
lực
lượng
lao
động
được
tổ
chức
tốt,
điều
làm
xói
mòn
quyền
lực
của
chế
độ
quân
sự.
Tuy
nhiên,
các
nước
nhiều
dầu
lửa
ở
Trung
Đông
lại
hoàn
toàn
khác.
Không
một
nước
nào
ở
khu
vực
này
có
nhiều
kinh
nghiệm
trước
đó
về
dân
chủ,
và
hầu
hết
các
nước
này
đều
có
nhiều
dầu
lửa
hơn
Indonesia,
Mexico,
và
Nigeria.
Ví
dụ,
Bahrain
có
thu
nhập
bình
quân
từ
dầu
lửa
trên
đầu
người
cao
gấp
ba
lần
so
với
Venezuela
vào
thời
điểm
năm
1958,
Libya
có
thu
nhập
cao
hơn
gấp
6
lần,
trong
khi
Saudi
Araibia
thì
gấp
7
lần.
Không
một
nước
nào
có
nhiều
dầu
lửa
hơn
Venezuela,
nước
năm
1958
sản
xuất
2,5
triệu
thùng
dầu
ngày,
từng
dân
chủ
hoá
thành
công.
Điều
đó
không
phải
để
nói
rằng
các
chế
độ
có
nhiều
dầu
mỏ
của
Trung
Đông
không
thể
sụp
đổ.
Sự
phát
triển
của
Internet
có
thể
khiến
các
nhà
độc
tài
khó
khăn
hơn
trong
việc
che
giấu
sự
hoang
phí
và
tệ
tham
nhũng
trong
chính
phủ.
Trong
khi
đó,
sự
dao
động
của
giá
dầu
cùng
với
những
sai
sót
trong
quản
lý
của
chính
phủ
có
thể
làm
cạn
kiệt
ngân
sách
của
các
nhà
độc
tài
và
buộc
họ
phải
cắt
giảm
các
khoản
trợ
cấp
cho
dân
chúng.
Nhà
Vua
Iran
bị
lật
đổ
năm
1979
sau
nạn
tham
nhũng
vốn
đem
lại
lợi
ích
cho
giới
tinh
hoa
và
các
biện
pháp
thắt
lưng
buộc
bụng
gây
tổn
hại
tới
các
tầng
lớp
trung
lưu
và
dân
nghèo.
Tuy
nhiên,
ngay
cả
khi
các
nhà
độc
tài
được
dầu
lửa
đỡ
lưng
của
Trung
Đông
được
thay
thế
bởi
những
nhà
lãnh
đạo
được
bầu
cử,
bóng
ma
của
chủ
nghĩa
chuyên
quyền
vẫn
tiếp
tục
hiển
hiện.
Các
nhà
độc
tài
và
nhà
vua
trong
khu
vực
đã
sử
dụng
nguồn
thu
từ
dầu
lửa
để
tài
trợ
cho
các
mạng
lưới
bảo
trợ
khổng
lồ,
vốn
thường
gây
khó
khăn
cho
cả
những
người
ủng
hộ
chế
độ
cũng
như
những
người
chống
đối
tiềm
tàng
của
họ.
Các
mạng
lưới
này
khiến
cho
các
nhóm
xã
hội
dân
sự
độc
lập
khó
phát
triển.
Việc
thiếu
vắng
xã
hội
dân
sự
sẽ
khiến
cho
các
nhà
dân
chủ
mới
gặp
khó
khăn
trong
việc
xây
dựng
các
liên
minh
mạnh
mẽ
với
các
đối
thủ
trong
chế
độ
cũ
–
các
liên
minh
cần
thiết
để
dẫn
lới
việc
thành
lập
các
chính
phủ
mới
và
ngăn
ngừa
sự
chở
lại
của
chủ
nghĩa
độc
tài.
Chừng
nào
giá
dầu
lửa
còn
cao,
các
nguồn
tài
trợ
này
vẫn
tiếp
tục
vẫn
là
một
nguồn
cám
dỗ.
Ngay
cả
các
chính
trị
gia
được
chọn
thông
qua
các
cuộc
bầu
cử
tự
do
và
công
bằng
cũng
có
thể
sử
dụng
nguồn
lợi
dầu
lửa
trời
cho
để
tiến
hành
các
cải
cách
về
dân
chủ.
Ví
dụ,
Tổng
thống
Venezuela
Hugo
Chávez
đã
rút
hàng
trăm
triệu
USD
khỏi
công
ty
dầu
lửa
do
nhà
nước
sở
hữu
để
đổ
vào
các
dự
án
giúp
tăng
cường
uy
tín
của
ông
trong
tầng
lớp
nghèo
và
quân
đội.
Điều
này
đã
giúp
Chávez
lấy
được
tình
cảm
của
họ
và
cho
phép
ông
xoá
bỏ
các
hàng
rào
kiểm
tra
đối
với
chính
quyền
của
ông
ta.
Rất
khó
để
có
thể
dự
đoán
liệu
Iraq
có
đi
theo
con
đường
tương
tự
hay
không.
Khoảng
85%
thu
nhập
của
chính
phủ
đến
từ
nguồn
thu
của
dầu
mỏ,
tuy
nhiên,
bất
chấp
việc
nhiều
năm
cố
gắng,
quốc
hội
của
Iraq
vẫn
chưa
thể
thông
qua
một
luật
dầu
mỏ
mới,
cho
phép
thành
lập
một
khung
luật
nhằm
quản
lý
nguồn
thu
từ
dầu
mỏ.
Trong
khi
đó,
có
những
dấu
hiệu
cho
thấy
Thủ
tướng
Iraq
Nouri
al-Maliki
né
tránh
dân
chủ.
Ông
này
đã
lợi
dụng
sự
mơ
hồ
trong
hiến
pháp
của
Iraq
để
thiết
lập
kiểm
soát
cá
nhân
đối
với
các
cơ
cấu
an
ninh
chủ
chốt,
trong
đó
có
Bộ
Tư
lệnh
chống
khủng
bố.
Những
người
chỉ
trích
cáo
buộc
rằng
ông
Maliki
đã
sử
dụng
những
công
cụ
này
để
bịt
miệng
các
đối
thủ
chính
trị.
Chính
phủ
của
ông
Maliki
cũng
bắt
đầu
trợ
cấp
hào
phóng
cho
các
nhà
báo
bằng
tiền
mặt
và
đất
đai.
Và
sau
các
cuộc
biểu
tình
của
người
dân
vào
tháng
2/2011,
có
tin
rằng
các
lực
lượng
an
ninh
đã
đánh
đập
và
bắt
giữ
hàng
trăm
nhà
báo,
các
nhà
hoạt
động
chính
trị
và
trí
thức.
Kể
từ
những
năm
1970,
tại
Trung
Đông,
dầu
lửa
đã
giúp
các
chế
độ
quân
chủ
và
giới
chính
trị
nắm
chắc
quyền
lực
và
duy
trì
công
dân
của
họ
ở
thế
yếu.
Cho
tới
nay,
ngay
cả
các
cuộc
nổi
dậy
trong
thế
giới
Arab
trong
năm
nay
vẫn
chưa
thay
đổi
được
tình
hình.
Trong
khi
đó,
nhờ
giá
dầu
cao,
nhu
cầu
dầu
lửa
toàn
cầu
ngày
một
tăng
cao,
công
thêm
công
nghệ
khoan
dầu
ngày
càng
được
cải
thiện,
đã
có
khoảng
15-20
quốc
gia
thu
nhập
thấp
đã
bắt
đầu
hoặc
dự
kiến
sẽ
bắt
đầu
xuất
khẩu
dầu
lửa
và
khí
đốt.
Hầu
hết
các
nước
này
đều
nằm
ở
Tiểu
vùng
Saharan
của
Châu
Phi.
Và
nếu
các
nước
này
lại
quản
lý
sai
nguồn
thu
nhập,
họ
cũng
có
thể
trở
thành
những
nạn
nhân
mới
của
lời
nguyền
dầu
lửa.