Trục
đường
TP
HCM
-
Long
Thành
-
Dầu
Giây
lẽ
ra
là
dự
án
cao
tốc
hiệu
quả
nhất
TP
HCM,
nhưng
cuối
cùng
lại
trở
thành
mối
nguy
cơ
làm
tăng
gánh
nặng
nợ
công
cả
nước
vì
suất
đầu
tư
quá
cao.
Đây
là
một
trong
hai
ví
dụ
được
thạc
sĩ
Nguyễn
Xuân
Thành
-
Chương
trình
Giảng
dạy
Kinh
tế
Fullbright
-
đưa
ra
để
cảnh
báo
về
cách
thức
giám
sát
nợ
công,
khi
mà
tỷ
lệ
nợ
trên
tổng
sản
phẩm
quốc
nội
(GDP)
có
thể
chạm
ngưỡng
60-
65%
vào
năm
2015
như
công
bố
của
Thủ
tướng
Nguyễn
Tấn
Dũng
tại
phiên
khai
mạc
Quốc
hội
sáng
20/10.
Đường
cao
tốc
TP
HCM
-
Long
Thành
-
Dầu
Giây
và
cảng
nước
sâu
Thị
Vải
-
Cái
Mép
được
ông
Thành
coi
là
hai
dự
án
điển
hình
của
lĩnh
vực
giao
thông,
một
lĩnh
vực
nặng
gánh
nợ
công
và
vẫn
có
nhu
cầu
rất
lớn
về
đầu
tư
công.
Trong
đó,
dự
án
thứ
nhất
đóng
vai
trò
đường
giao
thông
cửa
ngõ
của
TP
HCM.
Rất
nhiều
yếu
tố
khiến
dự
án
cao
tốc
có
hiệu
quả
tài
chính
kinh
tế
cao
như
kết
nối
với
sân
bay
quốc
tế
Long
Thành
trong
tương
lai,
kết
nối
với
cảng
biển
nước
sâu
và
kết
nối
với
hệ
thống
đường
cao
tốc
bắc
nam.
Lưu
lượng
dự
kiến
của
đường
cao
tốc
này
là
100.000
lượt
đơn
vị
xe
con
mỗi
ngày,
cao
hơn
tất
cả
các
trục
đường
cao
tốc
khác
trong
cả
nước,
nhờ
vậy
mà
cơ
hội
thu
phí
cao.
Nhưng
dự
án
này
rất
khó
hút
vốn
tư
nhân,
99,4%
tổng
mức
đầu
tư
vẫn
phải
tài
trợ
bằng
nợ
công,
khả
năng
chi
trả
rất
khó
khăn
khi
mà
suất
đầu
tư
quá
cao.
Tổng
vốn
lên
tới
hơn
930
triệu
USD
cho
55
km
với
4
làn
đường,
suất
đầu
tư
của
dự
án
này
là
18
triệu
USD
mỗi
km,
cao
hơn
hẳn
các
nước
khác.
Nếu
loại
trừ
các
chi
phí
xây
cầu
dẫn,
đền
bù
giải
phóng
mặt
bằng,
suất
đầu
tư
riêng
cho
việc
xây
đường
đã
là
12,7
triệu
USD
một
km.
Trong
khi
đó,
chi
phí
bình
quân
để
xây
một
km
đường
cao
tốc
ở
Mỹ
chỉ
là
1,4
triệu
USD,
tức
5,6
triệu
USD
cho
4
làn.
Còn
ở
Trung
Quốc
hay
Nigeria
chỉ
là
1
triệu
USD.
"Chi
phí
đầu
tư
quá
cao
khiến
một
dự
án
dù
có
hiệu
quả
kinh
tế
nhưng
vẫn
nguy
cơ
khó
trả
nợ
và
tạo
thêm
gánh
nặng
nợ
nần",
thạc
sĩ
Thành
bình
luận.
Trường
hợp
cảng
nước
sâu
Thị
Vải
-
Cái
Mép,
hiệu
quả
kinh
tế
tài
chính
còn
nhìn
thấy
rõ
hơn.
Đây
là
cảng
lớn
nhất
và
là
cảng
cửa
ngõ
của
TP
HCM.
Số
vốn
ODA
và
ngân
sách
(765
triệu
USD)
chỉ
đóng
vai
trò
vốn
mồi.
Sau
đó,
với
cam
kết
và
quyết
tâm
của
Chính
phủ,
dự
án
đã
thu
hút
1,2
tỷ
USD
vốn
của
tư
nhân
trong
và
ngoài
nước.
Số
tiền
này
đều
đã
được
giải
ngân,
nhiều
nhà
đầu
tư
tư
nhân
đã
hăm
hở
tới
đây
khởi
công
hạng
mục
của
mình.
Nhưng
trục
trặc
phát
sinh
khi
cảng
đi
vào
hoạt
động
mà
hạ
tầng
kết
nối
chưa
hoàn
thiện,
hàng
hóa
không
đủ
để
vẫn
chuyển
trong
khi
các
cảng
cũ
của
thành
phố
vẫn
tắc
nghẽn
vì
hoạt
động
quá
công
suất.
Những
cảng
container
đã
hoàn
thành
tưởng
sớm
cho
thu
hồi
vốn
nhưng
cuối
cùng
lại
chưa
thể
vận
hành
hết
công
suất.
"Giờ
thì
khả
năng
trả
nợ
của
dự
án
này
lại
gặp
nhiều
khó
khăn.
Không
biết
tới
bao
giờ
có
thể
thu
hồi
được
vốn
để
giảm
gánh
nặng
nợ
công",
ông
Thành
lo
lắng
sau
khi
trực
tiếp
tới
khảo
sát
ở
dự
án
này.
Từ
hai
ví
dụ
cụ
thể
này,
ông
Thành
đề
xuất
câu
chuyện
giám
sát
nợ
công
bây
giờ
không
phải
là
giữ
nợ
ở
mức
bao
nhiêu
so
với
GDP,
mà
phải
tái
cấu
trúc
các
khoản
nợ,
bổ
sung
cơ
chế
giám
sát
bên
cạnh
việc
chỉ
nhìn
từ
góc
độ
vĩ
mô.
Dù
có
chủ
trưởng
kiểm
soát
và
hạn
chế,
nợ
công
tại
Việt
Nam
vẫn
liên
tục
tăng
trong
10
năm
qua,
lần
đầu
tiên
vượt
mốc
50%
vào
năm
2009
khi
triển
khai
kích
cầu
và
hiện
lên
tới
57,3%
GDP
theo
công
bố
của
Bộ
Tài
chính.
Ông
Thành
dự
báo
con
số
này
có
thể
tiệm
cận
60%
vào
cuối
năm
nay
và
70%
vào
cuối
năm
sau
nếu
Chính
phủ
chấp
nhận
giảm
tăng
trưởng
để
ổn
định
kinh
tế.
Nếu
so
với
các
nước
đang
phát
triển,
nơi
đang
hứng
chịu
khủng
hoảng
nợ
công
với
tỷ
lệ
vượt
100%
GDP,
tình
hình
tại
Việt
Nam
chưa
đáng
báo
động.
Và
nếu
nhìn
vào
các
chỉ
tiêu
vĩ
mô
nội
tại
của
nền
kinh
tế
như
nghĩa
vụ
trả
nợ
so
với
thu
ngân
sách,
so
với
xuất
khẩu,
so
với
dự
trữ
ngoại
hối,
cơ
cấu
nợ
ODA
với
lãi
suất
ưu
đãi...
thì
nợ
công
của
Việt
Nam
cũng
vẫn
an
toàn.
|
Phối
cảnh
đường
cao
tốc
TP
HCM
-
Long
Thành
-
Dầu
Giây
tương
lai.
Ảnh:
Công
ty
đầu
tư
phát
triển
đường
cao
tốc
Việt
Nam |
Tuy
nhiên,
xu
thế
gia
tăng
nợ
công
tại
Việt
Nam
trái
ngược
hoàn
toàn
với
các
nước
trong
khu
vực
với
tỷ
lệ
trung
bình
chỉ
vào
khoảng
40%
và
đang
giảm
dần.
Tỷ
lệ
an
toàn
được
Quỹ
Tiền
tệ
Quốc
tế
(IMF)
khuyến
cáo
cũng
là
40%.
Trong
khi
đó,
dự
trữ
ngoại
hối
của
Việt
Nam
đang
ở
mức
thấp,
chỉ
tương
đương
2
tuần
nhập
khẩu
theo
số
liệu
của
Ngân
hàng
Thế
giới
(WB)
và
khó
tăng
trở
lại
như
thời
đỉnh
cao.
Nguyên
bộ
trưởng
Kế
hoạch
Đầu
tư
Trần
Xuân
Giá
cho
rằng
điều
đáng
lo
ngại
của
nợ
công
không
phải
là
đã
vượt
qua
ngưỡng
cho
phép,
mà
khả
năng
trả
nợ
của
Việt
Nam
cực
kỳ
thấp.
"Ai
đó
có
diệu
kế
để
nâng
khả
năng
trả
nợ
của
Việt
Nam
và
làm
thế
nào
để
cuộc
khủng
hoảng
nợ
công
của
Việt
Nam
đừng
xảy
ra,
nó
vốn
đang
tăng
nhanh
rồi.
Nếu
cứ
với
đà
này
nếu
không
kiểm
soát
được
chúng
ta
sẽ
vỡ
nợ",
ông
lo
lắng.
Theo
ông,
việc
làm
đầu
tiên
khi
tái
cấu
trúc
đầu
tư
công
đó
là
không
cho
"đẻ"
các
dự
án
mà
vài
năm
nữa
lại
phải
bàn
cách
xử
lý
nợ
nần.
Còn
với
những
dự
án
dang
dở,
dù
hiệu
quả
hay
không,
ông
Giá
đề
nghị
Nhà
nước
nên
bán
đứt
nếu
thấy
mình
làm
không
tốt
bằng
tư
nhân.
"Tương
tự
như
vậy
với
việc
tái
cơ
cấu
doanh
nghiệp,
đừng
để
xảy
ra
tình
trạng
cứ
xả
rác
rồi
phải
lo
quét
rác.
Và
những
doanh
nghiệp
nào
không
hiệu
quả,
nên
bán
cho
tư
nhân
để
lấy
tiền
làm
việc
khác",
ông
đề
nghị.
Chia
sẻ
quan
điểm
này,
thạc
sĩ
Thành
cho
rằng
cơ
chế
giám
sát
nợ
công,
bên
cạnh
việc
nhìn
từ
tiêu
chí
vĩ
mô,
cần
phải
là
cơ
chế
giám
sát
của
các
dự
án
đầu
tư
công
và
đánh
giá
khả
năng
trả
nợ
của
các
dự
án
này
từ
lúc
thẩm
định,
triển
khai
cho
tới
khi
đưa
vào
sử
dụng,
hoàn
vốn.
"Vấn
đề
nằm
ở
chỗ,
khủng
hoảng
nợ
công
nổ
ra
ở
các
nước
phát
triển
nhiều
khi
chỉ
vì
một
ngân
hàng,
một
doanh
nghiệp
hay
một
dự
án
mất
khả
năng
thanh
toán,
rồi
bất
ổn
loang
ra
cả
hệ
thống",
ông
Thành
khuyến
cáo
và
không
quên
nhắc
lại
hai
dự
án
cao
tốc
TP
HCM
-
Long
Thành
-
Dầu
Giây
và
cảng
nước
sâu
Cái
Mép
-
Thị
Vải
.
Tiến
sĩ
Deepak
Mishara,
chuyên
gia
kinh
tế
trưởng
Ngân
hàng
Thế
giới
(WB)
cho
rằng
Việt
Nam
đang
trải
qua
những
bất
ổn
kinh
tế
mang
tính
chu
kỳ,
nhưng
mới
đưa
ra
được
các
giải
pháp
ngắn
hạn,
giải
quyết
các
triệu
chứng
khó
khăn
chứ
chưa
đi
tới
gốc
rễ
vấn
đề.
"Nguyên
nhân
chính
của
những
khó
khăn
hiện
nay
là
cơ
cấu
kinh
tế
bất
hợp
lý,
khiến
đầu
tư
công
kém
hiệu
quả,
tỷ
lệ
đầu
tư
cho
GDP
cao
nhưng
tốc
độ
tăng
GDP
lại
không
tỷ
lệ
thuận.
Nền
kinh
tế
lệ
thuộc
quá
nhiều
vào
vốn
ngân
hàng.
Tỷ
lệ
nợ
ngân
hàng
dành
cho
các
doanh
nghiệp
quốc
doanh
Việt
Nam
còn
cao
hơn
nhiều
so
với
các
chaebol
Hàn
Quốc
trước
đây",
ông
Mishara
so
sánh.
Ông
Mishara
đề
nghị
Việt
Nam
nên
kiên
định
thực
hiện
nghị
quyết
11
về
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô,
đặc
biệt
cần
chú
ý
nhiều
hơn
tới
các
chính
sách
tài
khóa,
minh
bạch
hơn
việc
quản
lý
vốn
nhà
nước.
"Cần
có
tầm
nhìn
cho
chính
sách
tài
khóa
trung
hạn
3-5
năm,
giảm
dần
tỷ
lệ
nợ
trên
GDP,
đặc
biệt
thường
xuyên
giám
sát
và
công
bố
tình
hình
nợ
của
các
doanh
nghiệp
nhà
nước",
ông
nói.
Tại
Hội
thảo
Triển
vọng
kinh
tế
thế
giới
và
chính
sách
ứng
phó
của
Việt
Nam
do
Ủy
ban
Giám
sát
Tài
chính
Quốc
gia
tổ
chức
đầu
tuần
này,
nhiều
chuyên
gia
tán
thành
với
với
lựa
chọn
của
Chính
phủ,
chấp
nhận
tăng
trưởng
thấp
hơn
tiềm
năng
để
tập
trung
tái
cơ
cấu,
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô.
"Tăng
trưởng
giảm
có
thể
khiến
tỷ
lệ
nợ
công
tăng
lên.
Nhưng
Nếu
tái
cấu
trúc
thành
công,
kinh
tế
tăng
trưởng
cao
trở
lại
từ
2014-2015,
tỷ
lệ
nợ
công
sẽ
giảm
nhanh",
thạc
sĩ
Nguyễn
Xuân
Thành.
Tuy
nhiên
ông
cũng
khuyến
cáo,
nhiều
nước
trên
thế
giới
đã
bị
sụp
đổ
vì
nợ
nần
khi
tái
cấu
trúc
thất
bại.
Nhiều
nơi
bị
mắc
kẹt
giữa
khủng
hoảng
kinh
tế
và
nợ
nần,
phải
dốc
hết
những
đồng
tiết
kiệm
được
để
trả
nợ.