Phương
pháp
tái
cấu
trúc
hệ
thống
ngân
hàng
để
ngăn
ngừa
một
sự
đổ
vỡ
trước
mắt
và
phục
hồi
lòng
tin
thì
có
nhiều,
nhưng
quan
trọng
là
chúng
không
ảnh
hưởng
xấu
hoặc
đảo
ngược
tiến
trình
cải
cách
và
lành
mạnh
hóa
hệ
thống
ngân
hàng
trong
dài
hạn.
Khi
nào
thì
cần
tái
cấu
trúc?
Trước
khi
bắt
đầu,
cần
nói
qua
một
chút
về
khái
niệm.
Cụm
từ
"tái
cấu
trúc
hệ
thống
ngân
hàng"
chỉ
dùng
khi
có
bằng
chứng
mất
khả
năng
thanh
toán
của
một
bộ
phận
trong
hệ
thống
ngân
hàng
thương
mại
ở
một
quy
mô
nhất
định
nào
đó,
mà
theo
như
một
số
tác
giả
thì
tương
đương
với
20%
tổng
lượng
tiền
gửi
trong
hệ
thống
ngân
hàng.
Nếu
ở
quy
mô
nhỏ
hơn
thì
cụm
từ
"tái
cấu
trúc
ngân
hàng"
là
chính
xác
hơn,
liên
quan
đến
việc
xử
lý
khả
năng
mất
thanh
khoản
của
từng
ngân
hàng
riêng
biệt.
Ở
Việt
Nam,
vì
chưa/không
có
những
số
liệu
đáng
tin
cậy
về
rủi
ro
mất
thanh
khoản
của
từng
ngân
hàng
và
cả
hệ
thống
ngân
hàng
nên
sự
cần
thiết
phải
tiến
hành
"tái
cấu
trúc
hệ
thống
ngân
hàng"
đã
chưa
được
minh
chứng
đầy
đủ,
gợi
cho
ta
thấy
cái
gì
đó
như
có
tính
phong
trào,
cũng
như
kiểu
gần
đây
rộ
lên
cụm
từ
"tái
cấu
trúc
nền
kinh
tế",
mặc
dù
không
có
nhiều
người
hiểu
đúng
thế
nào
là
tái
cấu
trúc
nền
kinh
tế
và,
quan
trọng
hơn,
là
nên
bắt
đầu
từ
đâu,
làm
như
thế
nào,
bằng
phương
tiện
gì..v.v...
Giả
thiết
rằng
hệ
thống
ngân
hàng
Việt
Nam
đang
trên
bờ
vực
khủng
hoảng,
mất
khả
năng
thanh
toán
do
nợ
xấu
tăng
mạnh
và
thiếu
hụt
thanh
khoản
(ở
một
số
ngân
hàng,
và
có
khả
năng
lây
lan
rộng
và
nhanh
chóng),
cần
phải
thực
thi
ngay
việc
tái
cấu
trúc
nó.
Lúc
này,
tình
hình
đã
vượt
khỏi
phạm
vi
trách
nhiệm
và
can
thiệp
của
NHNN.
Chính
phủ
cần
phải
đưa
ra
một
gói
chính
sách
và
giải
pháp,
bao
gồm
chuẩn
đoán
ở
tầm
vĩ
mô
các
nguyên
nhân
gây
ra
rủi
ro
đổ
vỡ
hệ
thống
cũng
như
các
giải
pháp
ở
tầm
vi
mô
để
tăng
cường
giám
sát
hoạt
động
ngân
hàng,
sửa
chữa
những
thiếu
sót
trong
hệ
thống
pháp
lý,
luật
lệ
và
trong
công
tác
kế
toán,
kiểm
toán,
và
cứu
vớt
hay
giải
thể
các
ngân
hàng
mất
khả
năng
thanh
toán.
Sự
thành
công
của
việc
tái
cấu
trúc
hệ
thống
ngân
hàng
phụ
thuộc
rất
nhiều
vào
một
chiến
lược
toàn
diện
xử
lý
hữu
hiệu
tất
cả
các
vấn
đề
này.
|
Trị
"bệnh"
cho
ngân
hàng
cần
một
gói
chính
sách
và
giải
pháp. |
Mất
khả
năng
thanh
toán
-
Khó
thấy,
khó
thừa
nhận
Trở
ngại
đầu
tiên
khi
tái
cấu
trúc
ngân
hàng,
cho
dù
là
tái
cấu
trúc
một
ngân
hàng
hay
cả
hệ
thống,
là
sự
thiếu
động
lực
cho
cả
giới
quản
lý
ngân
hàng
lẫn
giới
giám
sát
ngân
hàng
để
nhận
ra
và
xử
lý
các
ngân
hàng
mất
khả
năng
thanh
toán.
Mặc
dù
người
ta
đã
cố
gắng
áp
dụng
các
chuẩn
mực
vốn
theo
khuyến
nghị
của
Ủy
ban
Giám
sát
ngân
hàng
Basle
(Basle
Committee)
để
đánh
giá
rủi
ro
tài
sản
ngân
hàng
nhưng
sẽ
vấn
rất
khó
để
giới
quản
lý
và
giám
sát
ngân
hàng
nhận
ra
và
thừa
nhận
rằng
một
ngân
hàng
nào
đó
đang
phải
đối
mặt
với
thua
lỗ
không
thể
khắc
phục
được
trong
một
thời
gian
định
trước
theo
luật
định
hiện
hành.
Lý
do
đằng
sau
việc
này
một
phần
là
bởi
sự
thiếu
vắng
các
chuẩn
mực
kế
toán
dẫn
đến
các
khoản
vay
xấu
tiếp
tục
được
gia
hạn,
một
phần
là
bởi
người
ta
e
ngại
rủi
ro
chính
trị
khi
phải
tuyên
bố
dùng
tiền
thuế
của
dân
để
cứu
vớt
ngân
hàng
phá
sản,
và
phần
nữa
là
do
các
ông
chủ
ngân
hàng
cũng
như
Chính
phủ
muốn
duy
trì
một
ngân
hàng
nào
đó
để
cấp
vốn
cho
một
nhóm
lợi
ích
hoặc
một
bộ
phận
kinh
tế
nào
đó
bằng
mọi
giá
cho
đến
lúc
nào
có
thể.
Điều
không
may
là
việc
không
nhận
ra
và
có
hành
động
kịp
thời
đối
với
một
ngân
hàng
có
vấn
đề
nào
đó
thường
dẫn
tới
sự
tích
tụ
các
tài
sản
xấu
và
ở
trong
các
ngân
hàng
làm
tăng
khả
năng
đổ
vỡ
cho
toàn
hệ
thống,
để
rồi
người
ta
lại
càng
tìm
cách
che
đậy
và
do
đó
vòng
xoáy
che
giấu
-
tích
tụ
tài
sản
xấu
-
che
giấu
càng
ngày
càng
tăng
mãnh
liệt
đến
lúc
sụp
đổ
cả
hệ
thống.
Ở
Việt
Nam,
trong
tình
hình
tù
mù
thông
tin
với
những
lời
đồn
đoán,
người
ta
chỉ
được
nghe
những
lời
tuyên
bố
của
giới
quản
lý
ngân
hàng
nào
đó
rằng
ngân
hàng
của
họ
chỉ
có
tỷ
lệ
nợ
xấu
dăm
ba
phần
trăm
gì
đó,
còn
lâu
mới
đạt
đến
giới
hạn
nguy
hiểm.
Hy
vọng
rằng
tình
hình
thực
tế
không
giống
như
những
gì
mô
tả
ở
đây.
Các
kịch
bản
đối
phó
Chính
phủ
nếu
không
muốn
đóng
cửa
các
ngân
hàng
phá
sản
thì
thường
sử
dụng
đến
mấy
giải
pháp
như:
(i)
gửi
tiền
vào
tổ
chức
ngân
hàng
có
vấn
đề,
biến
nó
thành
vốn
góp
chủ
sở
hữu.
Việc
này
thường
dẫn
đến
tổn
thất
lớn
về
ngân
sách
và
dự
trữ
ngoại
hối
quốc
gia;
(ii)
sáp
nhập
dưới
bàn
tay
đạo
diễn
của
Chính
phủ.
Chính
sách
này
đặc
biệt
hay
được
dùng
khi
Chính
phủ
bị
hạn
chế
bởi
nguồn
vốn
dùng
để
xử
lý
hậu
quả
của
việc
đóng
cửa
ngân
hàng
và
khi
toàn
hệ
thống
ngân
hàng
có
đủ
lực
tài
chính
để
hấp
thu
ngân
hàng
phá
sản.
Tuy
nhiên,
khi
phần
lớn
hệ
thống
bị
suy
sụp
thì
việc
sáp
nhập
trở
nên
bất
khả;
và
(iii)
Chính
phủ
trực
tiếp
hỗ
trợ.
Có
một
số
hình
thức
hỗ
trợ,
tùy
thuộc
vào
mức
độ
khủng
hoảng
thanh
khoản
của
các
ngân
hàng.
Nếu
tình
hình
chưa
đến
mức
độ
nghiêm
trọng
thì
chính
phủ
có
thể
hỗ
trợ
thanh
khoản,
áp
đặt
trần
lãi
suất
huy
động
(để
chuyển
một
phần
tổn
thất
vốn
do
nợ
xấu
cho
người
gửi
tiền
gánh
chịu),
kết
hợp
với
việc
cấm
chuyển
tiền
gửi
ra
nước
ngoài
hoặc
mở
rộng
loại
hình
kinh
doanh
hợp
pháp
cho
ngân
hàng
(với
hy
vọng
rằng
các
ngân
hàng
sẽ
thành
công
ở
những
mảng
kinh
doanh
phi
ngân
hàng
này
hơn
là
ở
những
mảng
kinh
doanh
ngân
hàng
truyền
thống).
Dường
như
Chính
phủ
và
NHNN
đã
có
một
số
kinh
nghiệm
áp
dụng
cả
3
biện
pháp
này
trong
một
vài
thời
điểm
ở
Việt
Nam.
Khi
tình
hình
thiếu
hụt
thanh
khoản
ở
mức
khủng
hoảng
thì
các
biện
pháp
can
thiệp
và
hỗ
trợ
trực
tiếp
của
Chính
phủ
phải
nhằm
xử
lý
các
vấn
đề
về
thiếu
hụt
vốn
(điều
lệ)
và
mất
cân
đối
trên
bảng
cân
đối
tài
sản
của
các
các
ngân
hàng.
Điển
hình
của
các
biện
pháp
này
là
sự
bơm
vốn
trực
tiếp
của
Chính
phủ
vào
ngân
hàng
có
vấn
đề
thông
qua
việc
mua
lại
các
tài
sản
xấu
và
cổ
phần
của
các
cổ
đông
(chính)
và
đưa
người
của
mình
vào
các
vị
trí
quản
lý
chủ
chốt.
Kèm
theo
đó,
Chính
phủ
cũng
có
thể
tuyên
bố
bảo
lãnh
cho
tất
cả
các
khoản
tiền
gửi
(theo
đó
là
tăng
rủi
ro
đạo
đức,
như
nói
ở
phần
trên).
Bốn
bước
tái
cấu
trúc
Như
vậy,
phương
pháp
tái
cấu
trúc
hệ
thống
ngân
hàng
để
ngăn
ngừa
một
sự
đổ
vỡ
trước
mắt
và
phục
hồi
lòng
tin
thì
có
nhiều,
nhưng
điều
quan
trọng
hơn
là
việc
sử
dụng
chúng
không
được
làm
ảnh
hưởng
xấu
hoặc
đảo
ngược
tiến
trình
cải
cách
và
lành
mạnh
hóa
hệ
thống
ngân
hàng
trong
dài
hạn.
Để
tái
cấu
trúc
thành
công
trong
dài
hạn
cần
sử
dụng
các
phương
pháp
thỏa
mãn
được
các
tiêu
chí:
tiết
kiệm
tối
đa
phí
tổn,
đơn
giản
khi
thực
hiện,
phân
bổ
tổn
thất
một
cách
công
bằng,
giảm
thiểu
gánh
nặng
tài
chính
cho
khu
vực
công,
tránh
tạo
ra
thêm
các
rủi
ro
đạo
đức,
và
nâng
cao
chất
lượng
quản
trị
ngân
hàng.
Khó
có
thể
biết
những
biện
pháp
tái
cơ
cấu
một
hay
một
số
ngân
hàng
có
vấn
đề
nào
đó
của
NHNN
từ
trước
cho
đến
nay
có
thỏa
mãn
được
các
tiêu
chí
này
không,
cũng
do
vì
sự
không
công
khai
thông
tin
từ
NHNN.
Thậm
chí,
theo
lời
nguyên
Thống
đốc
NHNN
Lê
Đức
Thúy,
khi
ông
tại
vị
đã
tiến
hành
một
loạt
các
vụ
sáp
nhập
các
ngân
hàng
thương
mại
với
nhau
mà
người
ta
chỉ
biết
được
khi
ông
tiết
lộ
gần
đây.
Về
mặt
pháp
lý,
quá
trình
tái
cấu
trúc
hệ
thống
ngân
hàng
sẽ
bao
gồm
4
công
việc
có
liên
quan
đến
nhau:
1.
Phục
hồi
lòng
tin
vào
hệ
thông
ngân
hàng
(thông
qua
bảo
lãnh
tiền
gửi,
củng
cố
cơ
cấu
thể
chế,
thi
hành
các
chuẩn
mực
kiểm
toán
và
kế
toán
quốc
tế,
nhất
là
chi
tiêu
phân
loại
tài
sản,
thắt
chặt
công
tác
giám
sát
tuân
thủ
luật
lệ,
đào
tạo
cán
bộ
thanh
tra
giám
sát
của
Chính
phủ
và
nhân
lực
kiểm
toán.
2.
Thiết
lập
một
khuôn
khổ
pháp
lý
cho
can
thiệp
của
Chính
phủ
nhằm
đảm
bảo
rằng
hệ
thống
bảo
hiểm
tiền
gửi
có
đủ
vốn
để
xử
lý
khủng
hoảng
và
có
thể
được
sử
dụng
một
cách
nhanh
chóng
và
hiệu
quả,
và
Chính
phủ
có
được
một
quy
trình
toàn
diện
về
theo
dõi
và
đánh
giá
liên
tục
tình
trạng
nợ
xấu
và
mất
thanh
khoản
trong
hệ
thống
ngân
hàng,
tránh
được
tình
trạng
bị
động.
3.
Thiết
lập
một
khuôn
khổ
pháp
lý
cho
can
thiệp
của
Chính
phủ
vào
ngân
hàng
mất
khả
năng
thanh
toán.
Quá
trình
can
thiệp
của
Chính
phủ
sẽ
làm
nảy
sinh
một
số
vấn
đề
về
pháp
lý
liên
quan
đến
việc
nắm
giữ
cổ
phần
của
các
cổ
đông
hiện
tại
và
vì
thế
cần
có
luật
tương
ứng
để
điều
chỉnh.
Ví
dụ,
khi
Chính
phủ
bơm
vốn
vào
cho
một
ngân
hàng
và
nếu
muốn
các
cổ
đông
hiện
tại
phải
rút
bớt
cổ
phần
tương
ứng
để
Chính
phủ
trở
thành
cổ
đông
chính
có
quyền
bổ
nhiệm
người
của
mình
vào
các
vị
trí
quản
lý
thì
cần
phải
có
một
luật
cho
phép
Chính
phủ
làm
như
vậy
nếu
họ
không
tự
nguyện
xin
rút.
4.
Thiết
lập
một
cơ
cấu
để
phục
hồi
tối
đa
các
khoản
nợ
xấu.
Phần
nợ
xấu
(đáng
kể)
sau
khi
đã
được
phân
loại
thì
chuyển
giao
xử
lý
cho
(i)
một
bộ
phận
độc
lập
trong
ngân
hàng,
chuyên
trách
về
việc
phục
hồi
tài
sản;
hoặc
(ii)
một
cơ
quan
chuyên
trách
của
Chính
phủ
như
công
ty
quản
lý
tài
sản
(ACM)
chuyên
tiếp
nhận,
quản
lý
và
thanh
lý
tài
sản
xấu.
Như
vậy,
có
thể
thấy
quá
trình
tái
cấu
trúc
hệ
thống
ngân
hàng
là
một
quá
trình
lâu
dài,
bao
gồm
nhiều
biện
pháp
pháp
lý
triển
khai
theo
từng
bước
từ
những
biện
pháp
khẩn
cấp
lập
lại
lòng
tin
đến
việc
tạo
dựng
những
cơ
chế
để
xử
lý
những
ngân
hàng
đổ
vỡ
và
giải
quyết
tài
sản
tồn
đọng
của
chúng.
Bên
cạnh
tính
pháp
lý,
yếu
tố
con
người
cũng
rất
quan
trọng.
Những
cán
bộ
thanh
tra
giám
sát
ngân
hàng
cần
phải
được
đào
tạo
và
trang
bị
các
kỹ
năng
để
thực
thi
các
luật
định,
và
các
nhà
quản
lý
ngân
hàng
cần
phải
thấy
được
các
lợi
ích
thiết
thực
khi
tuân
thủ
nghiêm
túc
các
luật
định
phòng
ngừa
rủi
ro
và
thi
hành
các
tiêu
chuẩn
kế
toán,
kiểm
toán
quốc
tế.
Nói
cách
khác,
khuôn
khổ
pháp
lý
xung
quanh
viêc
tái
cấu
trúc
ngân
hàng
cần
đảm
bảo
một
cơ
cấu
thưởng
phạt
nhất
quán
để
trừng
trị
các
hành
động
gian
lận,
đầu
cơ,
đồng
thời
tưởng
thưởng
thái
độ
tuân
thủ
pháp
luật
về
phòng
ngừa
rủi
ro.
Rất
mong
là
trên
thực
tế
NHNN
và
rộng
hơn
là
Chính
phủ
đã
có
những
bước
chuẩn
bị
và
đã
xây
dựng
được
những
thể
chế
và
khuôn
khổ
pháp
lý
cần
thiết,
áp
dụng
và
thực
thi
được
các
chuẩn
mực
quốc
tế
trong
phòng
ngừa
rủi
ro,
và
xây
dựng
được
đội
ngũ
nhân
lực
chuyên
môn
để
sẵn
sàng
phục
vụ
cho
quá
trình
tái
cấu
trúc
ngân
hàng
khi
cần
thiết,
và
trên
hết
hiểu
rõ
được
nguyên
nhân
và
cách
xử
lý
vấn
đề
..v.v...
là
những
thứ
mới
nêu
được
một
phần
trong
bài
này.
Cũng
mong
rằng
những
bên
hữu
quan
trên
thực
tế
đã
thực
hiện
được
một
số
công
việc
cần
làm
liên
quan
đến
tái
cấu
trúc
mà
không
chỉ
dừng
lại
ở
việc
tranh
luận
xem
tái
cấu
trúc
thì
cần
xóa
bỏ
ngân
hàng
nào,
xóa
bỏ
bao
nhiêu
ngân
hàng
thì
là
đủ,
xóa
bỏ
xong
rồi
thì
làm
gì...
như
đang
diễn
ra
sôi
nổi
hiện
nay,
vốn
chỉ
làm
cho
người
ta
nghi
hoặc
rằng
rốt
cuộc
hiểu
biết
về
vấn
đề
tái
cấu
trúc
còn
quá
hạn
chế,
mâu
thuẫn,
bất
nhất,
trong
khi
chưa
có
nhiều
việc
cần
làm
đã
làm
xong
để
sẵn
sàng
đối
mặt
với
nguy
cơ
của
một
cuộc
khủng
hoảng
thật
sự
có
thể
diễn
ra
nay
mai.