Điểm
mặt
6
hạn
chế
sau
25
năm
thu
hút
đầu
tư
nước
ngoài
Thứ
hai
-
18/03/2013
07:38
Hiệu
quả
nguồn
vốn
chưa
cao,
hiệu
ứng
lan
tỏa
thấp,
thu
hút
công
nghệ
chưa
như
kỳ
vọng,
số
việc
làm
tạo
ra
chưa
tương
xứng,
ô
nhiễm
môi
trường
và
hiện
tượng
chuyển
giá.
Theo
Thứ
trưởng
Bộ
KHĐT
Đào
Quang
Thu,
sau
25
năm
thực
hiện
chính
sách
mở
cửa,
thu
hút
đầu
tư
nước
ngoài
với
việc
ban
hành
Luật
Đầu
tư
nước
ngoài
năm
1987,
khu
vực
kinh
tế
có
vốn
đầu
tư
nước
ngoài
ngày
càng
phát
huy
vai
trò
quan
trọng
và
có
những
đóng
góp
đáng
kể
trong
sự
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
của
Việt
Nam.
Tuy
nhiên
bên
cạnh
đó,
có
6
hạn
chế
cần
phải
khắc
phục
trong
thời
gian
tới.
Hiệu
quả
tổng
thể
nguồn
vốn
ĐTNN
chưa
cao.
Theo
Thứ
trưởng
Thu,
trong
công
nghiệp
–
xây
dựng,
các
dự
án
ĐTNN
chủ
yếu
tập
trung
vào
lắp
ráp,
giá
trị
gia
tăng
thấp;
có
quá
ít
dự
án
về
cơ
sở
hạ
tầng;
tỷ
trọng
dự
án
trong
nông
–
lâm
–
ngư
nghiệp
rất
thấp
và
có
xu
hướng
giảm
dần
trong
khi
đây
là
những
ngành
Việt
Nam
có
thế
mạnh.
Trong
dịch
vụ,
các
dự
án
bất
động
sản
quy
mô
lớn
còn
cao
song
nhiều
trong
số
dự
án
này
chậm
triển
khai,
gây
lãng
phí
về
đất
đai,
vay
vốn
trong
nước.
ĐTNN
vào
các
dịch
vụ
trung
gian,
dịch
vụ
giá
trị
gia
tăng
cao,
giáo
dục
đào
tạo,
y
tế,
chăm
sóc
sức
khỏe,
môi
trường…
còn
hạn
chế.
ĐTNN
hiện
tập
trung
chủ
yếu
tại
địa
bàn
có
điều
kiện
thuận
lợi
về
cơ
sở
hạ
tầng,
nguồn
nhân
lực,
thị
trường
tiêu
thụ
sản
phẩm
gây
mất
cân
đối
vùng
miền,
không
đạt
được
mục
tiêu
hướng
ĐTNN
vào
địa
bàn
khó
khăn.
Các
KKT,
KCN,
KCNC
không
tạo
ra
lợi
thế
khác
biệt
cho
từng
địa
phương
và
vùng
lãnh
thổ.
Đối
tác
đầu
tư
vào
Việt
Nam
chủ
yếu
từ
Châu
Á,
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
là
doanh
nghiệp
nhỏ
và
vừa
chiếm
tỷ
lệ
cao.
Hiện
mới
chỉ
thu
hút
được
trên
100
trong
tổng
số
500
tập
đoàn
xuyên
quốc
gia
hàng
đầu
thế
giới.
Tỷ
lệ
vốn
thực
hiện
thấp
so
với
vốn
đăng
ký,
chỉ
khoảng
47,2%.
Mục
tiêu
thu
hút
công
nghệ
(công
nghệ
cao
và
công
nghệ
nguồn),
chuyển
giao
công
nghệ
chưa
đạt
được
như
kỳ
vọng
Trên
80%
doanh
nghiệp
ĐTNN
sử
dụng
công
nghệ
trung
bình
của
thế
giới,
5-6%
sử
dụng
công
nghệ
cao,
14%
ở
mức
thấp
và
lạc
hậu,
cá
biệt
có
trường
hợp
sử
dụng
công
nghệ
lạc
hậu.
Chuyển
giao
công
nghệ
chủ
yếu
thực
hiện
theo
chiều
ngang
–
giữa
doanh
nghiệp
với
doanh
nghiệp,
ít
có
những
biến
đổi
về
trình
độ
và
năng
lực
công
nghệ.
Không
ít
trường
hợp
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
lợi
dụng
sơ
hở
của
luật
pháp,
yếu
kém
trong
quản
lý
nhà
nước
để
nhập
khẩu
vào
Việt
Nam
máy
móc,
thiết
bị
lạc
hậu
gây
ô
nhiễm
môi
trường,
khai
tăng
giá
trị
nhập
khẩu
và
giá
trị
chuyển
giao
công
nghệ.
Công
nghệ
thấp
dẫn
đến
các
doanh
nghiệp
tại
Việt
Nam
chủ
yếu
thực
hiện
việc
gia
công,
một
số
doanh
nghiệp
được
coi
là
công
nghệ
cao
nhưng
những
khâu
sử
dụng
công
nghệ
cao
lại
không
thực
hiện
ở
Việt
Nam.
Hệ
quả
là
doanh
nghiệp
Việt
Nam
tạo
ra
giá
trị
gia
tăng
thấp,
khó
tham
gia
vào
mạng
sản
xuất
toàn
cầu.
Số
lượng
việc
làm
tạo
ra
chưa
tương
xứng,
đời
sống
người
lao
động
chưa
cao,
tranh
chấp
và
đình
công
có
xu
hướng
gia
tăng
Từ
năm
1995
đến
nay,
cả
nước
đã
xảy
là
4.142
cuộc
đình
công,
trong
đó75,4%
(3.122
cuộc)
của
doanh
nghiệp
ĐTNN,
chủ
yếu
xảy
ra
tại
doanh
nghiệp
của
Đài
Loan,
Hàn
Quốc,
Trung
Quốc,
Nhật
Bản;
tập
trung
ở
ngành
gia
công,
sử
dụng
nhiều
lao
động
như
dệt
may,
cơ
khí,
điện
tử,
da
giày
xuất
phát
từ
yêu
cầu
về
lợi
ích
của
người
lao
động,
nhất
là
vấn
đề
thỏa
thuận
mức
tiền
lương
và
điều
kiện
lao
động.
Tính
riêng
năm
2011,
tỷ
lệ
việc
làm
mới
do
khu
vực
ĐTNN
tạo
ra
chỉ
chiếm
3,4%
trong
tổng
số
lao
động
có
việc
làm.
Thu
nhập
bình
quân
theo
tháng
của
người
lao
động
trong
DN
FDI
chỉ
cao
hơn
khu
vực
doanh
nghiệp
tư
nhân
trong
nước
nhưng
thấp
hơn
khu
vực
doanh
nghiệp
nhà
nước.
Hiệu
ứng
lan
tỏa
của
khu
vực
ĐTNN
sang
khu
vực
khác
của
nền
kinh
tế
còn
hạn
chế,
có
dấu
hiệu
chèn
lấn.
Mặc
dù
doanh
nghiệp
trong
nước
được
hưởng
lợi
từ
ĐTNN
chủ
yếu
thông
qua
tác
động
mở
rộng
thị
trường,
nhưng
từ
năm
2007
(Việt
Nam
chính
thức
tham
gia
WTO)
đến
nay,
doanh
nghiệp
sản
xuất
và
dịch
vụ
trong
nước
ở
một
số
lĩnh
vực
đã
chịu
tác
động
chèn
lấn
của
doanh
nghiệp
ĐTNN.
Chưa
đảm
báo
tính
bền
vững
Tình
trạng
cạnh
tranh
trong
thu
hút
ĐTNN
khiến
một
số
dự
án
được
cấp
phép
nhưng
chưa
bảo
đảm
tính
bền
vững.
Quy
định
về
môi
trường
của
Việt
Nam
áp
dụng
chuẩn
của
các
nước
phát
triển,
song
việc
thẩm
định
chỉ
mang
tính
hình
thức,
tập
trung
nhiều
vào
khâu
tiền
kiểm,
dẫn
đến
nhiều
dự
án
khi
triển
khai
đã
vi
phạm
nghiêm
trọng
quy
định
về
môi
trường,
gây
tác
động
lâu
dài
tới
sức
khỏe
người
dân
và
hệ
sinh
thái
khu
vực.
Không
ít
dự
án
nhập
khẩu
máy
móc,
thiết
bị
lạc
hậu,
gây
ô
nhiễm
môi
trường
không
được
phát
hiện
kịp
thời.
Có
chiều
hướng
dịch
chuyển
dòng
ĐTNN
tiêu
tốn
năng
lượng
và
tài
nguyên,
nhân
lực,
không
thân
thiện
với
môi
trường,
vào
Việt
Nam
nhưng
nhiều
địa
phương
không
có
cơ
chế
kiểm
soát
về
môi
trường.
Một
số
dự
án
chiếm
giữ
đất
lớn
nhưng
không
triển
khai
gây
lãng
phí
tài
nguyên.
Một
số
trường
hợp
thu
hút
đầu
tư
chưa
tính
đến
hiệu
quả
tổng
thể
cả
về
an
ninh
quốc
phòng,
nhất
là
các
dự
án
trồng
rừng,
khai
thác
khoáng
sản,
nuôi
trồng
thủy,
hải
sản
ở
vùng
nhạy
cảm
về
an
ninh
quốc
phòng,
một
số
dự
án
sử
dụng
nhiều
lao
động
phổ
thông
nước
ngoài.
Hiện
tượng
chuyển
giá,
trốn
thuế.
Một
số
doanh
nghiệp
ĐTNN
có
biểu
hiện
áp
dụng
các
thủ
thuật
chuyển
giá
tinh
vi
như
nâng
khống
giá
trị
góp
vốn
(bằng
máy
móc,
thiết
bị,
bản
quyền…),
giá
trị
mua
bán
nguyên
vật
liệu
đầu
vào,
bán
thành
phẩm,
thành
phẩm,
dịch
vụ,
phí
quản
lý,
tiền
bản
quyền,
chi
phí
bảo
lãnh,
cho
vay,
trả
lương,
đào
tạo,
quảng
cáo,
nhà
thầu,
chuyển
nhượng
vốn
…
tạo
nên
tình
trạng
lỗ
giả,
lãi
thật,
gây
thất
thu
ngân
sách,
làm
cho
đa
số
bên
Việt
Nam
phải
rút
khỏi
liên
doanh,
doanh
nghiệp
trở
thành
100%
vốn
nước
ngoài.
Nguồn
tin:
TTVN