(TBKTSG)
-
Xuất
khẩu
tài
nguyên,
khoáng
sản
đã
và
đang
mang
về
cho
Việt
Nam
hàng
chục
tỉ
đô
la
Mỹ
mỗi
năm.
Nhưng,
nhiều
ý
kiến
cho
rằng
cách
phát
triển
kinh
tế
dựa
vào
tài
nguyên
thô
chẳng
khác
gì
“ăn
thịt”
chính
mình.
>>> Vay tương lai, đào hiện tại
Từ
thô
tới
thô!
Chỉ
trong
vòng
bảy
năm,
tính
từ
cuối
năm
2005,
sản
lượng
cà
phê
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
tăng
gần
2,5
lần,
cao
su
(thiên
nhiên)
xuất
khẩu
cũng
tăng
hai
lần.
Nhưng
thành
quả
này
cũng
phải
trả
giá
rất
đắt,
vì
trong
cùng
thời
gian
đó,
chỉ
riêng
ở
khu
vực
Tây
Nguyên
206.000
héc
ta
rừng
đã
biến
mất.
Trong
thập
niên
80
của
thế
kỷ
trước,
xuất
khẩu
tài
nguyên
từng
là
nguồn
thu
ngoại
tệ
chủ
yếu
của
Việt
Nam.
Giờ
đây,
tuy
tỷ
lệ
doanh
thu
từ
các
mặt
hàng
khoáng
sản
chỉ
còn
chiếm
khoảng
một
phần
mười
tổng
kim
ngạch
xuất
khẩu,
nhưng
Việt
Nam
vẫn
là
một
nền
kinh
tế
phát
triển
dựa
vào
tài
nguyên.
Thật
vậy,
theo
nghiên
cứu
của
Phòng
Thương
mại
và
Công
nghiệp
Việt
Nam,
công
nghiệp
khai
khoáng
đóng
góp
10-11%
tổng
sản
phẩm
trong
nước
(GDP).
Năm
2012,
tổng
kim
ngạch
xuất
khẩu
các
loại
khoáng
sản
trên
9,6
tỉ
đô
la
Mỹ,
trong
đó
nhiều
nhất
vẫn
là
dầu
thô
(8,228
tỉ
đô
la
Mỹ)
và
than
đá
(1,238
tỉ
đô
la
Mỹ).
Tuy
nhiên,
nếu
tính
cả
giá
trị
của
những
ngành
mà
Việt
Nam
đã
phải
trả
giá
bằng
chính
những
tài
nguyên
quý
giá
nhất
(rừng,
đất
đai)
để
có
được,
thì
sự
phụ
thuộc
của
nền
kinh
tế
vào
tài
nguyên
là
rất
lớn.
Cho
đến
nay,
các
nhà
địa
chất
đã
phát
hiện
được
ở
Việt
Nam
trên
5.000
điểm
mỏ
với
60
loại
khoáng
sản
khác
nhau,
từ
khoáng
sản
kim
loại
như:
đồng,
chì,
kẽm,
sắt,
mangan,
crom,
titan,
molybden,
wolfram,
thiếc,
bauxite...
cho
đến
các
khoáng
sản
phi
kim
loại
là
nguyên
liệu
của
ngành
phân
bón,
vật
liệu
xây
dựng,
và
khoáng
sản
năng
lượng
(dầu
khí,
than).
Tuy
nhiên,
do
phần
lớn
là
khai
thác,
sơ
chế
rồi
xuất
khẩu
dưới
dạng
thô,
nên
nó
không
có
đóng
góp
gì
đáng
kể
cho
sự
phát
triển
của
các
ngành
công
nghiệp.
Việc các cơ quan quản lý nhà nước ngó lơ cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản thô, thay vì lấy nguồn tài nguyên khoáng sản làm “mồi” để thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, khiến cho Việt Nam mất dần cơ hội để phát triển những ngành công nghiệp quan trọng, những lĩnh vực phụ trợ có sức lan tỏa lớn. |
Theo
thống
kê
của
Tổng
cục
Hải
quan,
từ
năm
2009-2011,
mỗi
năm
Việt
Nam
xuất
khẩu
2,1-2,6
triệu
tấn
khoáng
sản
các
loại
(không
kể
than,
dầu
thô)
với
điểm
đến
chủ
yếu
là
Trung
Quốc,
và
chỉ
mang
lại
giá
trị
130-230
triệu
đô
la
Mỹ.
Riêng
năm
2012,
lượng
khoáng
sản
xuất
đi
có
giảm,
chỉ
còn
gần
800.000
tấn,
bằng
đường
chính
ngạch.
Nếu
cộng
cả
số
xuất
lậu,
xuất
qua
đường
biên
mậu,
số
lượng
còn
lớn
hơn
nữa.
Chẳng
hạn
như
vào
năm
2008,
chỉ
riêng
xuất
lậu
quặng
titan
ước
tính
đã
lên
đến
200.000
tấn.
Ở
một
số
lĩnh
vực,
và
dưới
sức
ép
của
Chính
phủ,
doanh
nghiệp
khai
khoáng
cũng
có
“đầu
tư
vào
khâu
chế
biến”
để
xuất
khẩu,
nhưng
thực
tế
chỉ
là
“ít
thô”
hơn
mà
thôi.
Ngay
những
cơ
sở
tinh
luyện
đồng,
dù
được
một
số
doanh
nghiệp
giới
thiệu
là
“công
nghệ
cao”,
nhưng
công
nghệ
ấy
cũng
chỉ
làm
được
đồng
có
độ
tinh
khiết
99,9%,
chưa
đủ
“sạch”
so
với
yêu
cầu
chung
của
các
ngành
công
nghiệp
sử
dụng
đồng
làm
nguyên
liệu,
vốn
chỉ
sử
dụng
đồng
tinh
khiết
đến
99,99%.
Lợi
có
đủ
bù
đắp
thiệt
hại!
Cho
đến
nay,
khai
thác
tài
nguyên
để
xuất
khẩu
vẫn
là
ngành
kiếm
được
nhiều
lợi
nhuận,
nhưng
cái
lợi
đó
chỉ
chảy
vào
một
nhóm
nhỏ
doanh
nghiệp.
Việc
khai
thác
ồ
ạt
tài
nguyên
và
khoáng
sản
để
xuất
khẩu
khiến
cho
nền
kinh
tế
đã,
đang
và
sẽ
tiếp
tục
phải
trả
giá
trong
nhiều
năm
nữa.
Trước
hết
là
sự
lãng
phí.
Tại
hội
thảo
“Tài
nguyên
khoáng
sản
và
sự
phát
triển
bền
vững
ở
Việt
Nam”
diễn
ra
vào
cuối
tháng
11-2011,
các
diễn
giả
đã
đưa
ra
con
số
trên
2.000
doanh
nghiệp
với
4.218
giấy
phép
khai
khoáng
đã
được
cấp.
Điều
đáng
nói
ở
đây
là
sự
cấp
phép
dễ
dãi,
mà
một
số
chuyên
gia
kinh
tế
cho
là
do
nhóm
lợi
ích
chi
phối,
cộng
với
sự
“dễ
dãi”
cả
về
công
nghệ
khai
thác,
làm
cho
tài
nguyên
bị
thất
thoát
rất
lớn.
Chẳng
hạn
như
thất
thoát
trong
khai
thác
than
hầm
lò
đến
40-60%;
khai
thác
apatit
tổn
thất
26-43%;
khai
thác
quặng
kim
loại
tổn
thất
15-20%...
Ngoài
ra,
do
các
doanh
nghiệp
chỉ
quan
tâm
đến
nguồn
quặng
chính,
nên
không
tận
thu
được
các
khoáng
sản
đi
kèm
khác
cũng
như
các
quặng
nghèo.
Ví
dụ,
độ
thu
hồi
vàng
từ
quặng
chỉ
được
30-40%.
Tiếp
đến,
việc
các
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
ngó
lơ
cho
các
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
khoáng
sản
thô,
thay
vì
lấy
nguồn
tài
nguyên
khoáng
sản
làm
“mồi”
để
thu
hút
đầu
tư
vào
các
ngành
công
nghiệp
chế
biến,
khiến
cho
Việt
Nam
mất
dần
cơ
hội
để
phát
triển
những
ngành
công
nghiệp
quan
trọng,
những
lĩnh
vực
phụ
trợ
có
sức
lan
tỏa
lớn.
Đây
mới
là
thiệt
hại
đáng
kể
cho
nền
kinh
tế.
Hơn
nữa,
việc
mở
đường
cho
khai
thác
tài
nguyên
mà
không
gắn
với
phát
triển
công
nghiệp
chế
biến
còn
đẩy
nhanh
tốc
độ
“chảy
máu
tài
nguyên”.
Khi
các
ngành
công
nghiệp
nội
địa
phát
triển
thì
tài
nguyên
cũng
không
còn.
Công
nghiệp
chế
biến
gỗ
là
một
ví
dụ
điển
hình.
Trong
suốt
thập
niên
1980
và
những
năm
đầu
thập
niên
1990,
Việt
Nam
xuất
khẩu
ồ
ạt
nguyên
liệu
gỗ.
Mỗi
năm,
hàng
triệu
mét
khối
gỗ
tròn
và
gỗ
xẻ
đã
được
đưa
xuống
tàu
để
xuất
khẩu.
Giờ
đây,
khi
ngành
công
nghiệp
sản
xuất
đồ
gỗ
phát
triển
thì
nguồn
gỗ
nội
địa
cũng
không
còn.
Chúng
ta
cũng
có
thể
tìm
thấy
một
ví
dụ
tương
tự
đang
xảy
ra
với
ngành
khai
thác
than.
Đáng
ngại
hơn,
việc
phát
triển
kinh
tế
dựa
chủ
yếu
vào
việc
khai
thác
và
xuất
khẩu
tài
nguyên
thô
còn
làm
triệt
tiêu
động
lực
phát
triển
khoa
học
công
nghệ.
Đây
là
sự
khác
biệt
giữa
những
nền
kinh
tế
nghèo
tài
nguyên,
như
Nhật
Bản,
Hàn
Quốc,
Đài
Loan,
Singapore...
và
những
nền
kinh
tế
giàu
tài
nguyên
như
Nigeria,
quốc
gia
đã
kiếm
được
350
tỉ
đô
la
Mỹ
từ
xuất
khẩu
dầu
thô
từ
năm
1965-2000
và
giờ
đây
đang
là
một
trong
những
nước
nghèo
của
thế
giới.
Các
nhà
kinh
tế
gọi
đó
là
lời
nguyên
tài
nguyên,
là
“căn
bệnh
Hà
Lan”.
Ở
Việt
Nam,
“lời
nguyền
tài
nguyên”
rõ
nét
nhất
có
lẽ
là
ở
lĩnh
vực
nông
nghiệp.
Để
có
sản
lượng
cà
phê,
cao
su,
tiêu,
tôm...
xuất
khẩu
tăng
liên
tục,
chúng
ta
đã
phải
trả
giá
bằng
hàng
triệu
héc
ta
rừng.
Chỉ
trong
năm
năm,
2006-2011,
124.000
héc
ta
rừng
ngập
mặn
ven
biển
đã
biến
mất
để
nhường
chỗ
cho
các
ao
tôm,
ao
cá,
tương
đương
diện
tích
bị
mất
trong
63
năm
trước
đó.
Việc
gia
tăng
sản
lượng
dựa
vào
tăng
diện
tích
canh
tác
đã
góp
phần
thủ
tiêu
động
lực
phát
triển
khoa
học
kỹ
thuật
nông
nghiệp
(để
tăng
sản
lượng
thông
qua
tăng
tăng
suất).
Và, giờ đây chúng ta đang phải trả giá và sẽ còn phải trả giá nhiều hơn trong tương lai.
TẤN ĐỨC
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 114
•Máy chủ tìm kiếm : 19
•Khách viếng thăm : 95
Hôm nay : 25175
Tháng hiện tại : 922515
Tổng lượt truy cập : 44290200