Chi
tiêu
quá
mức
nhưng
đầu
tư
lại
kém
hiệu
quả
đã
khiến
nợ
công
của
VN
tăng
nhanh.
Tiến
sĩ
Vũ
Thành
Tự
Anh
(ảnh),
Giám
đốc
nghiên
cứu
của
Chương
trình
giảng
dạy
kinh
tế
Fulbright,
trao
đổi
với
Thanh
Niên.
Tăng
trưởng
giảm
nhưng
nợ
công
của
Việt
Nam
vẫn
tăng
liên
tục
trong
những
năm
qua,
ông
lý
giải
thế
nào
về
nghịch
lý
này?
Khi
đầu
tư
của
Chính
phủ
vượt
quá
sức
chịu
đựng
của
ngân
sách
thì
sẽ
phải
đi
vay.
Tỷ
lệ
đầu
tư
của
VN
trong
những
năm
qua
trung
bình
từ
40-42%
GDP,
trong
đó
khu
vực
công
chiếm
khoảng
45%.
Tỷ
lệ
đầu
tư
lớn,
tăng
liên
tục
nhiều
năm
trong
khi
ngân
sách
luôn
ở
tình
trạng
thâm
hụt
“báo
động
đỏ”
(trên
5%
GDP)
khiến
Chính
phủ
phải
đi
vay
nợ.
Điều
đó
là
nguyên
nhân
khiến
tỷ
lệ
nợ
công
ngày
càng
tăng.
Nhiều
ý
kiến
cho
rằng
con
số
thống
kê
nợ
công
của
ta
chưa
đầy
đủ,
quan
điểm
của
ông
về
việc
này?
Cái
gọi
là
nợ
công
ở
ta
hiện
thực
chất
mới
chỉ
là
nợ
của
Chính
phủ.
Theo
thông
lệ
quốc
tế,
nợ
công
phải
bao
gồm
cả
nợ
của
doanh
nghiệp
nhà
nước
(DNNN).
Sở
dĩ
nhiều
nước
có
nợ
Chính
phủ
và
nợ
công
gần
như
đồng
nhất
vì
khu
vực
DNNN
của
họ
rất
nhỏ.
Còn
ở
VN,
nợ
của
DNNN
có
quy
mô
xấp
xỉ
với
nợ
của
Chính
phủ
nên
không
được
phép
loại
nó
ra
khỏi
nợ
công.
Vì
suy
cho
cùng,
nếu
DNNN
không
trả
được
nợ
thì
ngân
sách
cũng
phải
gánh.
Ví
dụ,
theo
báo
cáo
của
Viện
Nghiên
cứu
quản
lý
kinh
tế
trung
ương,
đầu
tư
dự
kiến
của
22
trên
tổng
số
gần
100
tập
đoàn,
tổng
công
ty
nhà
nước
trong
năm
này
là
350.000
tỉ
đồng,
tương
đương
17%
GDP.
Nếu
tính
tất
cả
gần
100
tập
đoàn,
tổng
công
ty
thì
quy
mô
đầu
tư
là
khổng
lồ,
mà
một
tỷ
lệ
lớn
trong
số
này
là
đi
vay.
Có
nghĩa
là
số
liệu
nợ
công
theo
công
bố
thấp
hơn
thực
tế.
Vậy
nếu
thống
kê
đầy
đủ,
nợ
công
của
ta
có
nằm
trong
vùng
rủi
ro?
Theo
tôi,
nợ
công
của
ta
hiện
nay
có
nhiều
rủi
ro.
Rủi
ro
lớn
nhất
xuất
phát
từ
việc
chi
tiêu
và
đầu
tư
công
kém
hiệu
quả.
Rủi
ro
thứ
hai
là
một
bộ
phận
rất
lớn
nợ
công
của
các
DNNN
chưa
được
đưa
vào
trong
các
thống
kê
về
nợ
công.
Khi
không
đo
lường
được
và
không
hiểu
hết
“tảng
băng
chìm”
này
thì
cũng
không
thể
quản
lý
rủi
ro
mà
nó
có
thể
gây
ra.
Rủi
ro
thứ
ba
là
nợ
công
tăng
quá
nhanh,
trong
khi
thâm
hụt
ngân
sách
luôn
ở
mức
rất
cao.
Điều
này
vi
phạm
một
nguyên
tắc
cơ
bản
của
quản
lý
nợ
công,
đó
là
nợ
ngày
hôm
nay
phải
được
trang
trải
bằng
thặng
dư
ngân
sách
ngày
mai.
Nhưng
không
thể
phủ
nhận
vai
trò
quan
trọng
của
vay
nợ
với
một
nước
đang
phát
triển
như
Việt
Nam?
Một
nước
đang
phát
triển
thường
có
nhu
cầu
đầu
tư
rất
lớn,
trong
khi
tỷ
lệ
tiết
kiệm
lại
hạn
chế
nên
việc
vay
nợ
là
điều
bình
thường.
Vấn
đề
là
đầu
tư
như
thế
nào
để
phát
huy
hiệu
quả,
đồng
thời
không
ảnh
hưởng
tiêu
cực
tới
ổn
định
vĩ
mô.
Về
ổn
định
vĩ
mô,
có
thể
nói
chính
sách
tài
khóa
của
chúng
ta
trong
một
thời
gian
dài
đã
mắc
vào
một
sai
lầm
cơ
bản,
đó
là
“thuận
chu
kỳ”.
Nghĩa
là
khi
cả
nền
kinh
tế
hào
hứng
đầu
tư,
thay
vì
điềm
tĩnh
giảm
bớt
đầu
tư
công
thì
Chính
phủ
cũng
lại
hào
hứng
theo.
Vì
thế,
khi
kinh
tế
suy
giảm,
Chính
phủ
không
có
đủ
nguồn
lực
để
kích
thích
vì
túi
đã
thủng
quá
sâu.
Khi
ấy,
kích
thích
kinh
tế
phải
trả
cái
giá
rất
đắt,
đó
là
nền
kinh
tế
lún
sâu
vào
thâm
hụt
ngân
sách,
đồng
tiền
mất
giá,
lạm
phát
rình
rập.
Ví
dụ,
lượng
hàng
thực
tế
qua
hệ
thống
cảng
Thị
Vải
-
Cái
Mép
hiện
chưa
đến
20%
công
suất
thiết
kế
nhưng
Nhà
nước
vẫn
đầu
tư
tới
bốn
cảng,
trong
đó
ba
cảng
là
liên
doanh
của
Saigon
Port,
cảng
còn
lại
do
PMU
85
của
Bộ
Giao
thông
vận
tải
làm
đại
diện
chủ
đầu
tư
với
vốn
vay
ODA
khoảng
330
triệu
USD.
Câu
hỏi
đặt
ra
là,
khi
tư
nhân
hào
hứng
bỏ
tiền
vào
cảng,
Nhà
nước
có
cần
thiết
phải
đầu
tư
xây
cảng
để
cạnh
tranh?
Lẽ
ra,
thay
vì
cạnh
tranh
với
tư
nhân,
Nhà
nước
nên
xây
đường
dẫn
và
hệ
thống
logistic.
Vậy
ông
đánh
giá
thế
nào
về
kết
quả
của
việc
cắt
giảm
đầu
tư
công
tính
đến
thời
điểm
này?
Chính
phủ
đã
có
chủ
trương
kiên
quyết
cắt
giảm
đầu
tư
công,
nhưng
trên
thực
tế
đầu
tư
công
vẫn
tăng
cao.
Theo
số
liệu
của
Tổng
cục
Thống
kê,
vốn
đầu
tư
thực
hiện
từ
nguồn
ngân
sách
nhà
nước
trong
9
tháng
đầu
năm
2011
là
131.364
tỉ
đồng,
tăng
gần
24%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
Điều
này
cho
thấy,
kỷ
luật
đầu
tư
công
hiện
đang
rất
lỏng.
Một
vấn
đề
nữa
là
cắt
giảm
trong
nhiều
trường
hợp
không
đúng
ưu
tiên.
Có
những
dự
án
rất
quan
trọng,
sắp
hình
thành
nhưng
lại
bị
cắt
giảm
đột
ngột.
Ví
dụ
như
dự
án
xây
dựng
bệnh
viện
cấp
vùng
ở
Tiền
Giang
để
giảm
tải
cho
bệnh
viện
trung
ương.
Tại
sao
có
tình
trạng
cái
cần
cắt
thì
ưu
tiên,
cái
cần
đẩy
nhanh
tiến
độ
lại
bị
cắt?
Vấn
đề
là
ưu
tiên
thường
chạy
theo
mối
quan
hệ
lợi
ích
hay
ưu
ái
người
có
tiếng
nói.
Trong
trường
hợp
vừa
kể
trên
thì
tiếng
nói
của
người
nông
dân
hay
doanh
nghiệp
ở
ĐBSCL
không
thể
so
được
với
các
tập
đoàn
nhà
nước
hay
các
nhóm
khác.
Cần
hiểu,
nếu
để
xảy
ra
và
tồn
tại
mối
quan
hệ
chặt
chẽ
giữa
các
nhóm
đặc
quyền
đặc
lợi
và
những
người
làm
chính
sách
thì
sẽ
dẫn
đến
các
hành
vi
tham
nhũng
hoặc
trục
lợi.
Vậy
làm
thế
nào
để
cắt
giảm
đầu
tư
công
hiệu
quả,
và
rộng
hơn,
làm
thế
nào
để
chính
sách
tài
khóa
thực
sự
đóng
góp
vào
chống
lạm
phát?
Đầu
tiên
là
cần
phải
thiết
lập
lại
kỷ
luật
tài
khóa.
Thứ
hai,
giảm
thâm
hụt
ngân
sách
không
phải
bằng
việc
tăng
thu
(hay
tận
thu)
như
hiện
nay
mà
là
giảm
chi
trên
cơ
sở
tăng
hiệu
quả
chi
tiêu.
Thứ
ba,
các
khoản
thu
vượt
dự
toán
không
được
dùng
để
tăng
chi
tiêu
mà
phải
được
dùng
để
bù
thâm
hụt
ngân
sách.
Thứ
tư,
cần
kiên
quyết
thu
hồi
các
khoản
đầu
tư
ra
ngoài
ngành
của
các
tập
đoàn,
tổng
công
ty
nhà
nước.
Về
lâu
dài,
phải
tiến
hành
cải
cách
cơ
cấu
và
thay
đổi
mô
hình
tăng
trưởng
vốn
đã
trở
nên
lạc
hậu,
cản
trợ
các
động
lực
tăng
trưởng
mới
của
nền
kinh
tế.
(Nguyên
Hằng
thực
hiện
-
theo
Thanh
Niên)
Nếu
như
vào
năm
2001,
nợ
Chính
phủ
mới
chỉ
là
11,5
tỉ
USD
thì
đến
2010
đã
lên
tới
55,2
tỉ
USD.
Trong
giai
đoạn
này
nợ
Chính
phủ
tăng
trung
bình
khoảng
20%/năm,
gấp
ba
lần
tăng
trưởng
GDP.
Nợ
của
DNNN
còn
tăng
nhanh
hơn,
nhất
là
trong
vòng
5
năm
trở
lại
đây,
từ
khi
hàng
loạt
tập
đoàn
nhà
nước
ra
đời. |