Nợ
xấu
của
nhóm
NHTM
nhà
nước
tăng
66,18%,
nhóm
các
ngân
hàng
cổ
phần
tăng
44,29%,
nhóm
ngân
hàng
liên
doanh,
100%
vốn
nước
ngoài
tăng
59,23%
so
với
cuối
2010.
Quỹ
VAH
(Vietnam
Alternative
Holdings)
với
quy
mô
dự
kiến
100
triệu
đô
la
Mỹ
do
Công
ty
Quản
lý
quỹ
VietinBank
(VietinBank
Capital)
và
Saigon
Asset
Management
Corporation
(SAM)
đang
gây
dựng,
dự
kiến
cuối
năm
nay
sẽ
tham
gia
mua
bán
nợ
và
các
tài
sản
nợ
của
tổ
chức
tín
dụng.
“Quỹ
dự
kiến
mua
nợ
xấu
của
ngân
hàng
để
“tân
trang”
lại
rồi
bán,
có
thể
mua
nợ
xấu
từ
nhóm
II
trở
đi,
song
không
loại
trừ
các
khoản
nợ
vẫn
ở
nhóm
I
hay
những
khoản
vay
vẫn
đẹp
song
chủ
nhân
của
nó
muốn
bán
để
bước
chân
sang
ngành
khác”,
Tổng
giám
đốc
VietinBank
Capital
Nguyễn
Anh
Tuấn
chia
sẻ.
Với
tình
hình
nợ
xấu
đang
có
xu
hướng
gia
tăng,
các
tổ
chức
trung
gian
như
VAH
sẽ
có
nhiều
việc
để
làm.
Theo
Ngân
hàng
Thế
giới
và
Ngân
hàng
Nhà
nước
(NHNN),
tỷ
lệ
nợ
xấu
toàn
ngành
ngân
hàng
vào
thời
diểm
tháng
8-2011
là
3,1%,
tăng
so
với
mức
2,16%
vào
cuối
năm
2010
và
có
khả
năng
lên
tới
5%
vào
cuối
năm
2011.
Cụ
thể
hơn,
nợ
xấu
của
nhóm
ngân
hàng
thương
mại
(NHTM)
nhà
nước
tăng
66,18%,
nhóm
các
ngân
hàng
cổ
phần
tăng
44,29%,
nhóm
ngân
hàng
liên
doanh,
100%
vốn
nước
ngoài
tăng
59,23%
so
với
cuối
2010.
Đó
là
chưa
tính
đến
một
lượng
lớn
vốn
của
tổ
chức
tín
dụng
đầu
tư
vào
trái
phiếu
doanh
nghiệp
nhưng
chưa
được
đánh
giá
và
trích
lập
dự
phòng
đầy
đủ
đang
tiềm
ẩn
rủi
ro
đối
với
hoạt
động
của
các
tổ
chức
tín
dụng.
Một
đặc
điểm
của
ngành
ngân
hàng
là
tốc
độ
tăng
trưởng
tín
dụng
cao
hơn
nhiều
so
với
tốc
độ
tăng
trưởng
huy
động
và
tăng
trưởng
GDP
làm
tăng
rủi
ro
thanh
khoản.
Tín
dụng
tăng
trung
bình
32%
trong
giai
đoạn
2000-2010,
huy
động
tăng
29%,
trong
khi
GDP
chỉ
tăng
trung
bình
7,15%
trong
giai
đoạn
này.
Theo
các
chuyên
gia,
với
tốc
độ
tăng
trưởng
GDP
khoảng
7%,
mức
tăng
trưởng
tín
dụng
phù
hợp
là
14-20%
để
không
gây
ra
bong
bóng
tín
dụng,
hoặc
ảnh
hưởng
không
tốt
đến
sức
khỏe
của
nền
kinh
tế.
Việc
tín
dụng
tăng
trưởng
nhanh
hơn
huy
động
trong
hầu
hết
các
năm
cũng
làm
tăng
rủi
ro
thanh
khoản
của
hệ
thống
ngân
hàng.
Theo
NHNN,
con
số
nợ
xấu
3,1%
theo
chuẩn
Việt
Nam
vẫn
ở
mức
an
toàn
và
kiểm
soát
được,
nhưng
theo
chuẩn
quốc
tế
tỷ
lệ
nợ
xấu
của
các
ngân
hàng
Việt
Nam
lên
tới
13%
tổng
dư
nợ
và
là
một
con
số
đáng
lo
ngại. |
Đây
cũng
chính
là
lý
do
khiến
các
tổ
chức
quốc
tế
như
Fitch
Rating,
S&P
và
Moody’s
hạ
bậc
xếp
hạng
tín
dụng
của
Việt
Nam
trong
năm
2010
do
lo
ngại
về
tăng
trưởng
tín
dụng
nóng.
Do
ảnh
hưởng
của
việc
tăng
trưởng
tín
dụng
cao,
nợ
xấu
luôn
là
một
trong
những
vấn
đề
nổi
cộm
của
hệ
thống
ngân
hàng
từ
trước
tới
nay.
Theo
thống
kê
của
NHNN,
trong
tỷ
lệ
2,5%
nợ
xấu
toàn
ngành
của
năm
2010
có
tới
60%
là
nợ
xấu
của
các
doanh
nghiệp
quốc
doanh.
Theo
báo
cáo
của
Công
ty
Chứng
khoán
Vietcombank
(VCBS),
thực
tế
đang
có
sự
khác
biệt
tương
đối
lớn
trong
phân
loại
nợ
theo
chuẩn
Việt
Nam
(VAS)
và
theo
chuẩn
quốc
tế
(IAS)
nên
các
con
số
nêu
trên
chưa
chỉ
rõ
được
tình
trạng
sức
khỏe
các
tổ
chức
tín
dụng.
Theo
NHNN,
con
số
nợ
xấu
3,1%
theo
chuẩn
Việt
Nam
vẫn
ở
mức
an
toàn
và
kiểm
soát
được,
nhưng
theo
chuẩn
quốc
tế
tỷ
lệ
nợ
xấu
của
các
ngân
hàng
Việt
Nam
lên
tới
13%
tổng
dư
nợ
và
là
một
con
số
đáng
lo
ngại.
Báo
cáo
phân
tích
rằng
hầu
hết
các
NHTM
tại
Việt
Nam
hiện
nay
đều
phân
loại
nợ
dựa
vào
định
lượng
mà
thiếu
đi
phần
định
tính
như
tình
hình
tài
chính,
kết
quả
sản
xuất
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp.
Điều
này
dẫn
đến
việc
phân
loại
nợ
không
phản
ánh
thực
chất
khoản
nợ.
Đồng
thời,
các
ngân
hàng
chỉ
xếp
phần
nợ
đến
hạn
không
trả
được
vào
nợ
xấu,
trong
khi
phần
còn
lại
của
khoản
nợ
vẫn
là
nợ
đủ
tiêu
chuẩn.
Trong
khi
đó,
theo
chuẩn
quốc
tế,
nếu
phần
nợ
đến
hạn
không
trả
được
thì
toàn
bộ
khoản
nợ
phải
được
xếp
vào
nợ
xấu.
Ngoài
ra,
một
số
ngân
hàng
còn
biến
nghiệp
vụ
gia
hạn
nợ,
vốn
là
một
nghiệp
vụ
bình
thường
của
ngân
hàng
thành
một
hình
thức
để
giảm
tỷ
lệ
nợ
xấu
của
mình
do
nợ
gia
hạn
không
được
tính
vào
nợ
xấu.
Không
ít
ngân
hàng
đã
hạn
chế
phân
loại
nợ
xuống
nhóm
III-V
để
tránh
trích
lập
dự
phòng
rủi
ro
tín
dụng,
tránh
ảnh
hưởng
đến
lợi
nhuận
của
mình.
Kết
quả
là
sự
chênh
lệch
giữa
phân
loại
nợ
xấu
theo
chuẩn
trong
nước
và
quốc
tế
ngày
càng
lớn.
Mặc
dù
NHNN
đã
đưa
ra
quy
định
về
việc
phân
loại
nợ
theo
Quyết
định
493/2005
trong
đó
bao
gồm
cả
phân
loại
theo
định
lượng
(điều
6)
và
định
tính
(điều
7)
song
chỉ
có
BIDV,
Agribank
và
Vietcombank
đã
thực
hiện
việc
phân
loại
nợ
theo
định
tính.
Nguyên
nhân
là
do
họ
phải
xây
dựng
được
hệ
thống
xếp
hạng
tín
dụng
nội
bộ
để
áp
dụng
phương
pháp
phân
loại
này.
Việc
phân
loại
nợ
theo
định
tính
sẽ
làm
tỷ
lệ
nợ
xấu
cao
gấp
2-3
lần
so
với
định
lượng
và
bản
thân
nó
cũng
gặp
phải
nhiều
điểm
bất
cập.
NHNN
trong
cuộc
gặp
với
các
NHTM
mới
đây
cho
biết
họ
đang
xây
dựng
dự
thảo
thông
tư
quy
định
về
phân
loại
nợ,
trích
lập
và
sử
dụng
dự
phòng
để
xử
lý
rủi
ro
tín
dụng
trong
hoạt
động
của
tổ
chức
tín
dụng
nhằm
thay
thế
Quyết
định
493
đã
lỗi
thời.