Năm
2012
Việt
Nam
có
thể
sẽ
xuất
khẩu
được
7,3
triệu
tấn
gạo
-
kỷ
lục
từ
trước
đến
nay.
Có
được
con
số
này,
lúa
gạo
Việt
đã
trải
qua
nhiều
khó
khăn,
giông
bão,
nhiều
câu
chuyện
chưa
từng
được
kể.
Một
thời
gian
khó
Năm
2011
này,
lần
đầu
tiên
Việt
Nam
đạt
vượt
qua
ngưỡng
40
triệu
tấn
lúa
với
tổng
sản
lượng
cả
nước
đạt
tới
hơn
41,5
triệu
tấn
với
năng
suất
bình
quân
đã
vượt
mốc
6,1
tấn/ha.
Nhưng
để
đạt
được
kỳ
tích
như
ngày
hôm
nay,
hạt
gạo
Việt
Nam
đã
có
thời
bị
thiếu
hụt
trầm
trọng,
hàng
năm
phải
đi
nhập
khẩu
một
lượng
lớn
để
bù
đắp
cho
sự
thiếu
đói.
Nhớ
lại
những
thời
kỳ
đó,
ông
Nguyễn
Công
Tạn
-
nguyên
Phó
Thủ
tướng
Chính
phủ
nói:
“Năm
1980,
sản
lượng
lúa
nước
ta
mới
đạt
11,65
triệu
tấn,
sau
khi
thực
hiện
Chỉ
thị
100
đến
năm
1988
vươn
lên
được
17
triệu
tấn,
nhưng
vẫn
không
thể
đáp
ứng
được
nhu
cầu
tiêu
thụ
trong
nước
và
đây
chính
là
thời
điểm
cao
độ
của
khủng
hoảng,
lúc
đấy
đất
nước
ta
có
hàng
triệu
người
thiếu
ăn
và
phải
nhập
hàng
triệu
tấn
gạo
và
bột
mì".
Các
cột
mốc
trong
22
năm
xuất
khẩu
gạo
của
Việt
Nam:
Nếu
năm
1989,
Việt
Nam
mới
xuất
khẩu
được
1,37
triệu
tấn
gạo,
thì
6
năm
sau
đó
đến
năm
1995
đã
đạt
số
lượng
2,05
triệu
tấn.
Ngay
sau
đó
1
năm
(1996)
đã
tăng
vọt
lên
3,06
triệu
tấn,
đến
năm
1999,
xuất
khẩu
gạo
đạt
cột
mốc
mới
với
4,56
triệu
tấn.
Nhưng
kể
từ
sau
năm
2000,
số
lượng
xuất
khẩu
lại
bị
tụt
xuống
ở
mốc
3,35
triệu
tấn
và
đến
năm
2005
mới
thiết
lập
được
mốc
mới
là
5,2
triệu
tấn.
Tới
năm
2009
đạt
cột
mốc
6
triệu
tấn,
năm
2010
đạt
6,8
triệu
tấn
và
năm
2011
đạt
7,2
triệu
tấn.
“Năm
1987,
khi
tôi
làm
Bộ
trưởng
Bộ
Nông
nghiệp
và
Công
nghiệp
thực
phẩm,
nước
ta
vẫn
đói,
chúng
ta
thiếu
tới
1
triệu
tấn
gạo,
nhưng
chỉ
nhập
được
có
440.000
tấn.
Lúc
đó,
tôi
đã
kiến
nghị
với
đồng
chí
Phạm
Hùng,
khi
đó
là
Chủ
tịch
Hội
đồng
Bộ
trưởng
phải
nhập
thêm,
nhưng
đồng
chí
nói,
ngoại
tệ
và
vàng
trong
nước
đã
hết
rồi,
nên
có
đề
nghị
nhập
cũng
chịu”
-
ông
Tạn
nhớ
lại.
Thế
rồi,
luồng
gió
mới
từ
Nghị
quyết
10
đã
đến
và
giải
phóng
cho
toàn
bộ
nền
nông
nghiệp
nước
ta,
biến
một
nước
từ
chỗ
phải
lệ
thuộc
vào
lương
thực
nhập
khẩu
trở
thành
một
nước
xuất
khẩu
gạo
liên
tục
trong
22
năm
vừa
qua
Ông
Tạn
tâm
sự:
“Ngay
năm
1989,
sản
lượng
lúa
cả
nước
đã
đạt
18,99
triệu
tấn,
đến
1990
đạt
19,22
triệu
tấn,
rồi
19,43
triệu
tấn
vào
năm
1991
và
cứ
thế
suốt
từ
1988
đến
nay,
sản
lượng
lúa
chỉ
có
tăng
và
lên.
Đặc
biệt,
cũng
từ
1989,
chúng
ta
đã
xuất
khẩu
được
1,37
triệu
tấn
gạo,
từ
bấy
đến
nay
chỉ
toàn
xuất
khẩu
tới
ngưỡng
7,2
triệu
tấn
như
năm
nay”.
Theo
ông
Tạn,
để
có
được
thành
công
đó
là
do
Đảng,
Nhà
nước
đã
thay
đổi
chính
sách
về
nông
nghiệp,
nhất
là
chúng
ta
đã
luật
hóa
được
toàn
bộ
tư
liệu
sản
xuất
đối
với
nông
dân
bằng
Luật
Đất
đai
năm
1993.
Có
lúc
đi
xin...
xuất
khẩu
Hiện
nay,
hạt
gạo
Việt
Nam
đã
vươn
đi
gần
như
khắp
thế
giới.
Nhưng
để
có
được
thành
công
và
những
thuận
lợi
đó,
những
người
làm
công
tác
xuất
khẩu
gạo
đã
trải
qua
những
thời
kỳ
vô
cùng
gian
khó.
Là
người
điều
hành
xuất
khẩu
gạo
ngay
từ
những
ngày
đầu,
hạt
gạo
Việt
Nam
vươn
ra
khỏi
bản
đồ
hình
chữ
S,
ông
Nguyễn
Đăng
Chi
-
nguyên
Vụ
trưởng
Vụ
Xuất
nhập
khẩu
(Bộ
Công
Thương)
nhớ
lại:
“Khi
chúng
ta
mới
tham
gia
xuất
khẩu
gạo,
trên
thị
trường
thế
giới
cung
vẫn
còn
lớn
hơn
cầu,
nước
xuất
nhiều
hơn
nước
nhập,
nên
dạo
đó,
có
những
hợp
đồng
khi
tổ
chức
đấu
thầu,
chúng
tôi
đã
phải
đi
“lobby”
cả
đến
cấp
Chính
phủ
nước
đó.
Thậm
chí,
có
thời
điểm
xuất
khẩu
khó
khăn
quá,
chúng
tôi
đã
phải
thảo
cả
thư
cho
Phó
Thủ
tướng
Nguyễn
Công
Tạn
ký
gửi
cho
Tổng
thống
Philippines
chiếu
cố
nhập
khẩu
gạo
cho
chúng
ta”.
Đánh
giá
của
các
chuyên
gia
cho
thấy,
triển
vọng
xuất
khẩu
gạo
năm
2012
của
Việt
Nam
nhìn
chung
vẫn
khá
sáng
sủa
do
yếu
tố
lũ
lụt
ở
Thái
Lan,
cộng
với
chính
sách
quy
định
về
thu
mua
gạo
ở
giá
sàn
khá
cao
của
nước
này,
tạo
cơ
hội
cho
Việt
Nam
có
thể
san
bằng,
thậm
chí
vượt
Thái
Lan
về
số
lượng
xuất
khẩu
gạo
ở
vị
trí
“quán
quân”.
Theo
ông
Chi:
“Trong
trước
mắt
và
có
lẽ
cả
lâu
dài,
xuất
khẩu
gạo
nhìn
chung
thuận
lợi
nhiều
hơn
do
chúng
ta
có
được
cơ
hội
do
đất
đai
ngày
càng
thu
hẹp,
dân
số
thế
giới
lại
tăng,
nguy
cơ
đói
của
thế
giới
vẫn
còn.
Cộng
với
kinh
nghiệm
nhiều
năm
trong
xuất
khẩu
với
nhiều
thị
trường,
bạn
hàng
lâu
năm,
chúng
ta
sẽ
vẫn
rất
thuận
lợi
về
xuất
khẩu
gạo.
Tuy
nhiên,
vai
trò
điều
hành,
nhất
là
của
Hiệp
hội
Lương
thực
Việt
Nam
(VFA)
phải
được
xây
dựng
lại
mạnh
hơn,
đặc
biệt
giữa
các
doanh
nghiệp
phải
đoàn
kết,
bảo
được
nhau.
Như
thế,
xuất
khẩu
mới
đem
lại
hiệu
quả”.
“Vương
miện”
phải
dành
cho
nông
dân
Có
một
thực
tế
hiện
nay,
mặc
dù
riêng
ngành
lúa
gạo
xuất
khẩu
đã
đem
lại
giá
trị
tới
3,5
tỷ
USD/năm
về
cho
nước
ta,
nhưng
thực
tế,
từ
sau
năm
1975
đến
nay
những
người
trồng
lúa
vẫn
là
những
người
nghèo
nhất.
TS
Lê
Hưng
Quốc
-
nguyên
Cục
trưởng
Cục
Trồng
trọt
(Bộ
NNPTNT)
cho
rằng:
“Thực
tế,
cái
vị
trí
số
1
hay
số
2
chẳng
có
gì
vinh
dự,
mà
điều
quan
trọng
là
người
nông
dân
được
hưởng
bao
nhiêu
phần
trăm
lợi
nhuận
trong
những
con
số
xuất
khẩu
đó.
Cho
nên,
theo
tôi
chiếc
“vương
miện”
số
1
đó
phải
được
dành
cho
những
người
nông
dân
trực
tiếp
làm
ra
từng
hạt
gạo”.
Cũng
theo
ông
Quốc,
trên
thế
giới
đã
có
nhiều
nước,
thậm
chí
người
ta
còn
điều
chỉnh
vị
trí
xuất
khẩu
của
mình
từ
số
1
xuống
số
2,
từ
số
2
xuống
số
3…
để
đem
lại
hiệu
quả
cho
người
sản
xuất.
Cùng
chung
tư
tưởng
với
ông
Quốc,
ông
Nguyễn
Đăng
Chi
nhận
định,
vươn
lên
số
1,
số
2
về
số
lượng
không
khó
nếu
các
nước
thi
nhau
xuất
khẩu
giá
thấp.
Ông
nói:
“Chúng
ta
cần
tập
trung
vào
nâng
cao
hiệu
quả
xuất
khẩu,
đảm
bảo
cho
nông
dân
có
lợi
trong
từng
cân
lúa
bán
ra
với
mức
lãi
30%
thậm
chí
có
thể
50%
và
cao
hơn
nữa”.