Từ
một
nước
luôn
phải
phụ
thuộc
phần
lớn
vào
nguồn
phân
đạm
urê
nhập
khẩu,
bắt
đầu
từ
năm
2012,
Việt
Nam
đã
có
thể
tự
chủ
hoàn
toàn
được
loại
phân
bón
quan
trọng
này.
Đặc
biệt,
khi
các
dự
án
mới
về
sản
xuất
phân
đạm
urê
đi
vào
hoạt
động
ổn
định
trong
quý
4/2012
và
nguồn
cung
phân
bón
tổng
hợp
NPK
các
loại
cũng
đã
vượt
xa
nhu
cầu
cần
thiết
thì
các
doanh
nghiệp
sẽ
có
nhiều
cơ
hội
để
hướng
tới
xuất
khẩu.
Hiệp
hội
Phân
bón
Việt
Nam
(FAV)
cho
biết,
năm
2012,
lần
đầu
tiên
Việt
Nam
sẽ
tự
túc
được
hoàn
toàn
nhu
cầu
phân
đạm
urê
khi
Nhà
máy
đạm
Cà
Mau
của
Tập
đoàn
Dầu
khí
Việt
Nam
công
suất
800
nghìn
tấn/năm
và
Nhà
máy
Phân
bón
Ninh
Bình
của
Tập
đoàn
Công
nghiệp
hóa
chất
Việt
Nam
công
suất
560
nghìn
tấn/năm
đi
vào
hoạt
động,
nâng
tổng
công
suất
đạm
urê
lên
2,36
triệu
tấn,
tăng
hơn
gấp
đôi
so
với
năm
2011.
Trong
khi
đó,
nhu
cầu
urê
năm
2012
chỉ
khoảng
1,8
triệu
tấn.
Như
vậy,
không
những
tự
túc
được
phân
đạm
urê
cho
sản
xuất
nông
nghiệp
mà
còn
chấm
dứt
tình
trạng
nhập
khẩu
thất
thường
kéo
dài
trong
nhiều
năm
qua,
bởi
theo
tính
toán
với
năng
lực
sản
xuất
như
hiện
nay
thì
nguồn
cung
vượt
trên
nhu
cầu
của
cả
nước
khoảng
560
nghìn
tấn/năm.
Như
vậy,
với
nguồn
cung
dư
thừa
thì
các
doanh
nghiệp
sản
xuất
phân
bón
sẽ
phải
tìm
thị
trường
xuất
khẩu
để
tạo
đầu
ra
cho
sản
xuất
trong
nước.
Trước
đây,
đã
từng
có
những
thời
điểm
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
thực
hiện
xuất
khẩu
phân
urê,
nhưng
đó
là
khi
urê
nhập
khẩu
và
sản
xuất
trong
nước
bị
tồn
đọng
nhiều
do
cung
vượt
cầu,
nên
phải
tiến
hành
xuất
khẩu
lượng
urê
nhập
khẩu
tồn
kho.
Còn
tới
cuối
năm
2012,
lần
đầu
tiên
Việt
Nam
hoàn
toàn
có
thể
trở
thành
nước
xuất
khẩu
phân
đạm
urê
do
chính
các
nhà
máy
trong
nước
sản
xuất.
Việc
này
sẽ
không
phải
là
nhất
thời
mà
sẽ
kéo
dài
trong
nhiều
năm
tới,
vì
sản
lượng
urê
sản
xuất
trong
nước
sẽ
còn
tiếp
tục
tăng
mạnh.
Theo
dự
kiến,
sản
lượng
urê
trong
nước
sẽ
vượt
qua
mức
3
triệu
tấn
vào
năm
2015.
Nhà
máy
đạm
Hà
Bắc
đang
triển
khai
dự
án
mở
rộng
đầu
tư
nâng
công
suất
từ
200
nghìn
tấn/năm
hiện
nay
lên
500
nghìn
tấn/năm
vào
năm
2015.
Tập
đoàn
Công
Thanh
cũng
đang
tính
toán
đầu
tư
nhà
máy
sản
xuất
đạm
từ
than
cám
với
công
suất
khoảng
560
nghìn
tấn/năm
tại
xã
Hải
Yến,
huyện
Tĩnh
Gia,
tỉnh
Thanh
Hóa.
Trong
khi
đó,
nhu
cầu
urê
cả
nước
trong
những
năm
tới
đây
vẫn
chỉ
ở
mức
khoảng
trên
dưới
2
triệu
tấn/năm.
Do
đó,
không
phải
chờ
đến
năm
2015
mà
ngay
từ
cuối
năm
2011,
các
doanh
nghiệp
sản
xuất
urê
đã
bắt
đầu
tìm
kiếm
thị
trường
xuất
khẩu
để
giảm
bớt
áp
lực
cạnh
tranh
trong
nước
và
có
đầu
ra
ổn
định
cho
hoạt
động
sản
xuất.
Theo
FAV,
xuất
khẩu
phân
bón
là
một
hướng
mở
tiềm
năng
cho
các
doanh
nghiệp
sản
xuất
trong
nước,
nhưng
thị
trường
xuất
khẩu
phân
bón
của
Việt
Nam
cũng
đang
bị
cạnh
tranh
khốc
liệt
với
các
sản
phẩm
phân
bón
của
Trung
Quốc,
Thái
Lan,
các
nước
Trung
Đông,
Nga.
Vì
vậy,
bên
cạnh
việc
mỗi
doanh
nghiệp
sản
xuất
phân
bón
phải
chủ
động
đầu
tư
cải
tiến
công
nghệ
sản
xuất,
nâng
cao
chất
lượng,
giảm
giá
thành
để
tăng
sức
cạnh
tranh,
cũng
như
có
chiến
lược
xây
dựng
thương
hiệu
thì
sự
hợp
tác
liên
kết
giữa
các
doanh
nghiệp
cùng
ngành
nghề
sẽ
rất
cần
thiết
giúp
doanh
nghiệp
thắng
lợi
trên
thị
trường
trong
và
ngoài
nước.
Việc
liên
kết
có
thể
thực
hiện
giữa
các
doanh
nghiệp
trong
cùng
một
tập
đoàn
hoặc
giữa
các
tập
đoàn
với
nhau
khi
sản
phẩm
đầu
ra
của
doanh
nghiệp
này
lại
là
sản
phẩm
đầu
vào
của
doanh
nghiệp
khác.
Hiện
nay,
thị
trường
châu
Phi
đang
có
nhu
cầu
lớn
về
phân
bón
các
loại
nhưng
xuất
khẩu
vào
thị
trường
này
cũng
khá
rủi
ro
cho
doanh
nghiệp,
bởi
các
ngân
hàng
ở
các
nước
châu
Phi
không
đảm
bảo
về
thanh
toán.
Vì
vậy,
nếu
Chính
phủ
Việt
Nam
ký
được
Hiệp
định
bảo
đảm
thanh
toán
với
chính
phủ
các
nước
châu
Phi
nhằm
tạo
điều
kiện
cho
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
không
bị
thiệt
hại
thì
kim
ngạch
xuất
khẩu
phân
bón
vào
châu
Phi
có
thể
nâng
lên
rất
cao.
Tổng
thư
ký
FAV
Nguyễn
Đình
Hạc
Thúy
khẳng
định,
giá
phân
bón
phụ
thuộc
nhiều
vào
giá
than
và
giá
khí,
giá
quặng
apatit,
bởi
đây
là
nguồn
nguyên
liệu
và
nhiên
liệu
đầu
vào
chủ
yếu
để
sản
xuất
phân
bón.
Vì
vậy,
cùng
với
việc
nghiên
cứu
chính
sách
giá
bán
nguồn
nguyên
nhiên
liệu
đầu
vào
này
hợp
lý
đảm
bảo
lợi
ích
của
các
bên,
Bộ
Tài
chính
cần
sớm
có
chính
sách
thuế
phù
hợp,
tạo
thuận
lợi
hơn
cho
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
phân
bón.
Theo
tính
toán
của
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn,
nhu
cầu
phân
bón
các
loại
của
cả
nước
trong
năm
2012
sẽ
khoảng
9,8
triệu
tấn.
Trong
đó,
phân
NPK
3,5
triệu
tấn,
phân
urê
2
triệu
tấn,
phân
lân
các
loại
1,8
triệu
tấn,
DAP
950
nghìn
tấn,
kali
920
nghìn
tấn,
đạm
SA
710
nghìn
tấn.
Trong
các
loại
phân
bón
chủ
lực
trên,
thì
đến
năm
2012,
Việt
Nam
đã
hoàn
toàn
tự
túc
được
NPK,
lân
và
urê.
Còn
đối
với
phân
DAP,
dù
hiện
đã
có
Nhà
máy
DAP
Đình
Vũ
(Hải
Phòng)
với
công
suất
330
nghìn
tấn/năm,
nhưng
cũng
chỉ
đáp
ứng
được
35%
nhu
cầu
cả
nước.
Còn
lại
65%
nhu
cầu
DAP
vẫn
phải
phụ
thuộc
vào
nhập
khẩu.
Tập
đoàn
hóa
chất
đang
tích
cực
xúc
tiến
việc
xây
dựng
nhà
máy
DAP
ở
Lào
Cai,
có
công
suất
tương
đương
với
Nhà
máy
Đình
Vũ.
Như
vậy,
chỉ
sau
vài
năm
nữa,
lượng
DAP
nhập
khẩu
sẽ
giảm
đáng
kể.
Còn
2
loại
phân
quan
trọng
khác
là
SA
và
kali
vẫn
phải
nhập
100%
từ
nước
ngoài,
bởi
trong
nước
hiện
nay
chưa
có
nhà
máy
nào
sản
xuất
2
loại
phân
bón
này.
Trong
khi
đó,
hiện
nay,
Việt
Nam
đã
có
đủ
cơ
sở
vật
chất
để
sản
xuất
amoniac
nhằm
cung
cấp
nguyên
liệu
cho
sản
xuất
phân
SA.
Còn
nếu
thực
hiện
được
dự
án
khai
thác
và
chế
biến
muối
mỏ
ở
Lào
thì
sẽ
có
thể
sản
xuất
được
kali
cho
thị
trường
nội
địa.