Hàng
Việt
Nam
xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc
ngày
càng
nhiều
nhưng
trên
các
kệ
hàng
ở
các
siêu
thị
lớn
hay
ở
các
nhà
phân
phối
và
bán
lẻ
hiện
đại
lại
hầu
như
vắng
bóng,
đang
vừa
là
thách
thức
vừa
là
cơ
hội
cho
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
tăng
cường
thâm
nhập
vào
thị
trường
này.
Toàn
cảnh
hội
thảo
về
hiệp
định
ACFTA
-
Hiệp
định
mậu
dịch
tự
do
ASEAN
-
Trung
Quốc.
Ảnh:
Hoàng
Phi
Nhận
định
này
được
các
chuyên
gia
đưa
ra
tại
Hội
thảo
“ACFTA
sau
2
năm
thực
thi:
cơ
hội
và
thách
thức
cho
doanh
nghiệp
Việt
Nam”,
do
Hội
Doanh
nghiệp
hàng
Việt
Nam
chất
lượng
cao
tổ
chức,
vào
chiều
ngày
10
tháng
5
năm
2012.
Tham
tán
thương
mại
Tổng
lãnh
sự
quán
Trung
Quốc
tại
TPHCM
Vi
Tích
Thần,
cho
biết
phân
khúc
tiêu
dùng
của
người
Trung
Quốc
rất
đa
dạng,
và
nhu
cầu
là
rất
lớn,
và
rằng
“tất
cả
hàng
vào
Trung
Quốc
đều
có
thể
tiêu
thụ
được,
nếu
biết
tìm
hiểu
và
nắm
bắt
tâm
lý
tiêu
dùng”.
Hai
mặt
hàng
ông
Thần
cảm
thấy
tiếc
rẻ
vì
"rất
được
ưa
chuộng
và
ai
từ
Trung
Quốc
đến
Việt
Nam
cũng
khen"
nhưng
bị
các
doanh
nghiệp
bỏ
quên
là
trái
cây
và
thủy
hải
sản
“Người
tiêu
dùng
Trung
Quốc
không
tài
nào
tìm
mua
được
trên
các
quầy
siêu
thị
các
loại
trái
cây
ngon
khác,
cũng
như
các
loại
thủy
hải
sản
nổi
tiếng
ngon
của
Việt
Nam,
ngoại
trừ
thanh
long.
Các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
xuất
khẩu
đi
Mỹ,
Úc,
Nhật
Bản,
châu
Âu
rất
nhiều,
trong
khi
bỏ
quên
thị
trường
Trung
Quốc
còn
lớn
hơn
gấp
bội,
mà
các
điều
kiện
về
kiểm
định
thì
rất
thấp”,
ông
Thần
cho
biết.
Theo
ông
Thần,
tốc
độ
xuất
khẩu
hàng
hóa
của
Việt
Nam
sang
Trung
Quốc
tăng
nhanh
khi
trong
năm
2011
kim
ngạch
xuất
khẩu
Việt
Nam
sang
nước
này
tăng
25,9%
trong
khi
Việt
Nam
xuất
sang
Trung
Quốc
tăng
59%,
cao
hơn
chiều
ngược
lai,
vốn
khoảng
26%.
Và
trong
những
tháng
tháng
đầu
năm
2012
con
số
này
đã
tăng
50%.
Điều
này,
theo
ông,
chứng
tỏ
thị
trường
Trung
Quốc
lúc
nào
cũng
hoan
nghênh
hàng
Việt
Nam,
và
chính
phủ
Trung
Quốc
đang
khuyến
khích
nhập
khẩu
hàng
tiêu
dùng
và
nguyên
liệu
để
đáp
ứng
nhu
cầu
tiêu
dùng
và
sản
xuất
trong
nước.
Chính
vì
thế,
nhiều
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đang
tìm
cách
thâm
nhập
vào
thị
trường
đầy
tiềm
năng
này.
Tuần
trước,
23
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đã
có
chuyến
tìm
hiểu
thị
trường,
tham
dự
hội
chợ,
tìm
kiếm
đối
tác.
Cũng
trong
chuyến
đi
này,
một
dự
án
xúc
tiến
thuê
6.000
mét
vuông
mặt
bằng
tại
Thẩm
Quyến
dành
riêng
cho
hàng
Việt
Nam
đang
được
thực
hiện.
Trong
một
diễn
biến
khác,
Công
ty
cổ
phần
Gemadep
về
logistics
đang
đầu
tư
mở
rộng
cảng
mới
để
đáp
ứng
nhu
cầu
vận
chuyển
hàng
hóa
đang
ngày
một
tăng
cao
từ
Việt
Nam
đi
Trung
Quốc.
Theo
ông
Nguyễn
Thanh
Tịnh,
phụ
trách
đầu
tư
dự
án
cảng
Nam
Hải
Đình
Vũ
ở
Hải
Phòng
của
Gemadept,
sản
lượng
hàng
hóa
thông
qua
cảng
tăng
liên
tục
trong
3
năm
trở
lại,
từ
150.000
TEU
vào
năm
2009
đã
tăng
lên
gần
200.000
TEU
vào
năm
2011,
trong
đó
phần
lớn
hàng
hóa
phục
vụ
cho
giao
thương
với
thị
trường
Trung
Quốc.
Dù
đã
hoạt
động
hết
công
suất,
nhưng
cảng
đã
có
dấu
hiệu
quá
tải,
và
vì
thế
công
ty
đang
đầu
từ
xây
dựng
hệ
thống
cảng
mới
có
quy
mô
lớn
gấp
3
lần
cảng
cũ
nhằm
khai
thác
tốt
hơn
nhu
cầu
này.
Cảng
Nam
Hải
Đình
Vũ
nằm
ở
khu
vực
bán
đảo
Đình
Vũ,
Hải
Phòng,
là
dự
án
do
luyên
doanh
giữa
Gemadept
và
Công
ty
cổ
phần
Vận
tải
xăng
dầu
Vipco.
Dự
án
có
diện
tích
gần
15
héc
ta,
chiều
dài
cầu
tàu
450
mét,
có
thể
tiếp
nhận
tàu
20.000
DWT
và
công
suất
bốc
xếp
đến
500.000
TEU/năm.
Ông
Nguyễn
Lâm
Viên,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
Vinamit,
doanh
nghiệp
có
nhiều
năm
làm
ăn
ở
thị
trường
này,
cho
biết
cơ
hội
để
hàng
Việt
Nam
thâm
nhập
vào
Trung
Quốc
là
rất
lớn,
vì
“hàng
ngoại
nói
chung,
và
hàng
Việt
Nam
nói
riêng,
rất
được
ưa
chuộng”.
Ông
cũng
nói
thêm
rằng,
hiện
nay,
các
hệ
thống
siêu
thị
Trung
Quốc
đang
ngày
càng
mở
rộng
các
gian
hàng
bán
hàng
nhập
khẩu
nhiều
hơn
trong
khuôn
viên.
Ông
Trương
Đình
Tuyển,
nguyên
Bộ
trưởng
Bộ
Thương
mại,
hiện
là
thành
viên
hội
đồng
tư
vấn
chính
sách
tài
chính
tiền
tệ
quốc
gia,
nhận
định
tại
Diễn
đàn
"Diễn
tiến
tác
động
hội
nhập
đến
hoạt
động
thương
mại
của
Việt
Nam",
do
Trung
tâm
Hỗ
trợ
hội
nhập
WTO
TPHCM
và
Hiệp
hội
Doanh
nghiệp
TPHCM
tổ
chức
cùng
ngày
10
tháng
5,
như
sau:
Cần
phải
khai
thác
cho
được
những
thị
trường
có
hiệp
định
thương
mại
tự
do
(FTA)
với
Việt
Nam,
đáng
lưu
ý
là
thị
trường
Trung
Quốc.
Về
ngắn
hạn,
trong
một
số
năm
trước
mắt,
doanh
nghiệp
Việt
Nam
có
thể
tận
dụng
ba
động
thái
của
Trung
Quốc.
Thứ
nhất,
Chính
phủ
Trung
Quốc
đang
chuyển
cạnh
tranh
từ
giá
thấp
sang
cạnh
tranh
về
chất
lượng.
Có
những
mặt
hàng
mà
chi
phí
tiền
lương
quá
cao,
người
ta
không
sản
xuất
nữa
mà
chuyển
sang
nhập
khẩu.
Và
thị
trường
xuất
khẩu
cho
họ
chính
là
Việt
Nam.
Chính
vì
vậy,
năm
2010,
2011
tốc
độ
tăng
trưởng
của
hàng
xuất
khẩu
Việt
Nam
vào
Trung
Quốc
rất
cao,
đạt
46%.
Đây
là
cái
mà
chúng
ta
có
thể
khai
thác
trong
một
số
năm
trước
mắt.
Thứ
hai,
Trung
Quốc
cũng
đang
điều
chỉnh
lại,
không
chỉ
dựa
vào
xuất
khẩu
mà
dựa
vào
tiêu
dùng
trong
nước,
tức
tăng
mức
tiêu
dùng
trong
nước.
Nhu
cầu
nhập
khẩu
cũng
tăng
lên.
Có
những
thời
điểm
Trung
Quốc
đã
nhập
siêu.
Đây
là
một
điểm
Việt
Nam
có
thể
khai
thác.
Đặc
biệt
thị
trường
phía
Tây
Nam
của
Trung
Quốc,
chất
lượng
hàng
hoá
và
có
khả
năng
cạnh
tranh
thấp
hơn
so
với
miền
Đông
nước
này.
Và
vận
tải
từ
miền
Đông
đến
miền
Tây
khó
hơn
vận
tải
từ
Hải
Phòng
đi
lên
các
tỉnh
phía
Tây
của
Trung
Quốc.
Với
sức
ép
của
Mỹ
và
EU,
Trung
Quốc
phải
nâng
giá
đồng
nhân
dân
tệ
(NDT).
Điều
này
tạo
ra
tác
động
theo
hai
hướng.
Trung
Quốc
nâng
giá
NDT
thì
xuất
khẩu
Việt
Nam
có
lợi,
nhưng
nâng
giá
NDT
không
đi
kèm
với
việc
giảm
nhập
khẩu
hàng
hóa
từ
Trung
Quốc.
Dù
Trung
Quốc
có
nâng
giá
NDT,
thì
giá
hàng
hoá
của
họ
vẫn
rẻ
hơn
những
nước
có
công
nghệ
nguồn,
như
châu
Âu.
Cho
nên,
nhu
cầu
nhập
khẩu
hàng
Trung
Quốc
của
Việt
Nam
không
giảm,
không
những
thế,
NDT
tăng
giá
sẽ
kéo
kim
ngạch
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
tăng
lên.
Khi
NDT
tăng
giá,
Trung
Quốc
sẽ
dịch
chuyển
đầu
tư
từ
miền
Đông
sang
miền
Tây
–
nơi
lao
động
rẻ,
và
sang
các
nước
khác,
trong
đó
có
Việt
Nam.
Do
đó,
không
khéo
thì
Việt
Nam
sẽ
tiếp
nhận
công
nghệ
lạc
hậu
của
Trung
Quốc.
Vì
vậy,
việc
Trung
Quốc
nâng
giá
đồng
NDT
vừa
có
hướng
tích
cực
với
nhà
xuất
khẩu
nhưng
nhập
khẩu
không
có
lợi.
(Ảnh:
Thu
Nguyệt) |