Không
dừng
lại
là
thua
lỗ
khi
lấn
sân
viễn
thông.
Tuy
nhiên,
khoản
lỗ
có
thể
sẽ
lớn
hơn
nếu
tính
đủ
các
chi
phí
mà
5
Tổng
công
ty
Điện
lực
đã
phải
gánh
hộ
EVN
Telecom.
Dấu
không
hết
lỗ
Khác
với
các
khoản
chi
đầu
tư
ngành
ngoài
khác
của
EVN,
Công
ty
Thông
tin
Viễn
thông
Điện
lực
(EVNTelecom)
là
trường
hợp
nổi
bật
nhất
được
đầu
tư
100%
vốn
từ
EVN
nhưng
thua
lỗ
nặng
nề
nhất.
Tính
tới
hết
năm
2010,
khoản
vốn
này
đã
lên
tới
2.442
tỷ
đồng,
chiếm
4,88%
vốn
đầu
tư
của
EVN.
Tuy
nhiên,
con
số
thực
tế
sẽ
còn
lớn
hơn
nhiều
vì
đây
là
khoản
chưa
tính
đến
vốn
đầu
tư
của
EVN
vào
lĩnh
vực
viễn
thông
tại
các
Tổng
công
ty
điện
lực.
Trong
khi
đó,
doanh
thu
và
lợi
nhuận
của
EVN
Telecom
lại
liên
tục
sụt
giảm.
Nếu
như
năm
2008,
đơn
vị
này
còn
đạt
doanh
thu
tới
3.705,6
tỷ
đồng,
lợi
nhuận
trước
thuế
còn
đạt
93,8
tỷ
tỷ
đồng
thì
năm
2009,
tình
hình
tài
chính
đã
sa
sút
nghiêm
trọng.
Năm
2009
trong
bối
cảnh
suy
giảm
kinh
tế
nói
chung,
doanh
thu
của
công
ty
này
chỉ
còn
đạt
3.004,4
tỷ
đồng,
giảm
19%
so
với
năm
2008.
Song,
lợi
nhuận
trước
thuế
còn
giảm
mạnh
hơn,
chỉ
đạt
vỏn
vẹn
8,2
tỷ
đồng,
"thua"
tới
92%
so
với
năm
trước.
Năm
gần
đây
nhất
2010,
theo
Kiểm
toán
Nhà
nước,
EVN
Telecom
đã
chuyển
từ
lãi
sang
lỗ
hoàn
toàn.
Tổng
doanh
thu
trong
năm
này
chỉ
là
2.120,6
tỷ
đồng,
giảm
42%
so
với
năm
2009.
Quan
trọng
hơn,
lợi
nhuận
trước
thuế
đang
từ
dương
8,3
tỷ
đồng
đã
về
kết
quả
âm
tới
1.057,7
tỷ
đồng.
Nhìn
lại
năm
2008,
số
lợi
nhuận
của
EVN
Telecom
có
được
chỉ
bằng
1/11
của
số
lợi
nhuận
"âm"
này.
EVN
đầu
tư
5
lĩnh
vực
là
viễn
thông,
chứng
khoán,
ngân
hàng,
bảo
hiểm,
bất
động
sản
với
tổng
vốn
là
4.551,4
tỷ
đồng,
chiếm
9,01%/vốn
đầu
tư
và
4,13
%/Tổng
nguồn
vốn
điều
lệ
của
Công
ty
mẹ.
Như
vậy,
với
con
số
2.442
tỷ
đồng,
EVN
Telecom
ngốn
nhiều
vốn
ngành
ngoài
của
EVN
nhất,
chiếm
tới
53%
tổng
vốn
đầu
tư
ngành
ngoài
của
Tập
đoàn
này.
Ngược
lại
với
sự
ưu
ái
này,
kết
quả
kinh
doanh
của
EVN
Telecom
lại
là
sự
thất
bại
vì
chỉ
mang
về
thua
lỗ.
Cơ
quan
Kiểm
toán
đánh
giá,
các
Tổng
công
ty
điện
lực
đầu
tư
cơ
sở
hạ
tầng
mạng
2G
cho
EVNTelecom
thuê
chưa
đem
lại
hiệu
quả,
trong
cơ
cấu
giá
cho
thuê
thấp
hơn
chi
phí
do
không
tính
chi
phí
lãi
vay
và
giãn
thời
gian
khấu
hao
là
15
năm,
trong
khi
tài
sản
khấu
hao
thực
tế
là
10
năm.
Đẩy
lỗ
sang
các
tổng
công
ty
điện
lực
Sự
thua
lỗ
của
một
dự
án
kinh
doanh
có
thể
do
nhiều
yếu
tố
khách
quan
về
môi
trường
đầu
tư,
thị
trường,
hoặc
yếu
tố
chủ
quan
là
dự
báo
sai
tình
hình...
Tuy
nhiên,
việc
hô
biến
chi
phí
đầu
vào
của
EVN
Telecom
thành
chi
phí
kinh
doanh
của
5
Tổng
công
ty
điện
lực
thì
thật
khó
hiểu.
Việc
biến
hóa
này
liên
quan
tới
khoản
chi
phí
thiết
bị
đầu
cuối
của
EVN
Telecom
từ
năm
2006-2008.
Tính
tới
31/12/2009,
tổng
số
chi
phí
thiết
bị
đầu
cuối
của
EVN
Telecom
đã
là
1.868
tỷ
đồng,
song
khoản
này
chỉ
phân
bổ
cho
chính
công
ty
EVN
Telecom
632
tỷ
đồng.
Do
thua
lỗ,
khó
khăn
tài
chính,
Hội
đồng
quản
trị
công
ty
mẹ
EVN
đã
gỡ
khó
bằng
cách
giảm
vốn
tại
EVNTelecom,
tăng
vốn
tại
các
công
ty
điện
lực.
Việc
này
thể
hiện
qua
Nghị
quyết
135
của
Hội
đồng
quản
trị
Công
ty
mẹ
EVN
ban
hành
ngày
29/3/2010
về
việc
điều
chỉnh
cơ
chế
tài
chính
của
hoạt
động
kinh
doanh
viễn
thông
va
qua
văn
bản
số
1827/EVN-TCKT
của
EVN
ngày
25/5/2011,
quyết
nghị
điều
chuyển
toàn
bộ
giá
trị
còn
lại
của
thiết
bị
đầu
cuối
mạng
CDMA
từ
EVNTelecom
cho
các
Tổng
công
ty
điện
lực.
Tổng
số
chi
phí
"đầu
vào"
này
lên
tới
1.026
tỷ
đồng,
tương
đương
½
khoản
vốn
đầu
tư
từ
công
ty
mẹ
EVN
vào
viễn
thông.
Trong
đó,
Tổng
công
ty
Điện
lực
miền
Bắc
gánh
chi
phí
thiết
bị
đầu
cuối
lớn
nhất
là
378,2
tỷ
đồng,
kế
đến
là
Tổng
công
ty
điện
lực
Miền
Nam
với
việc
gánh
325,36
tỷ
đồng,
Tổng
công
ty
điện
lực
miền
Trung
"nhận"
208,73
tỷ
đồng.
Hai
Tổng
công
ty
điện
lực
Tp
HCM
và
Hà
Nội
nhận
khoản
"trách
nhiệm"
thiết
bị
đầu
cuối
thay
cho
EVN
Telecom
thấp
nhất,
lần
lượt
là
69,75
tỷ
đồng
và
44,908
tỷ
đồng.
Để
hợp
thức
hóa
việc
điều
chuyển
khoản
chi
phí
trên,
EVN
Telecom
phát
hành
hóa
đơn
ghi
nợ
cho
các
Tổng
công
ty
điện
lực,
các
Tổng
công
ty
điện
lực
nhận
nợ
đồng
thời
hạch
toán
giảm
nợ
phải
trả,
tăng
vốn
đầu
tư
của
EVN
tại
đơn
vị.
Sau
đó,
5
Tổng
công
ty
này
đã
phân
bổ
241,17
tỷ
đồng,
hạch
toán
vào
chi
phí
sản
xuất
kinh
doanh
năm
2010.
Tổng
công
ty
điện
lực
miền
Nam
là
đơn
vị
đã
hạch
toán
vào
kết
quả
kinh
doanh
khoản
chi
phí
này
ở
mức
lớn
nhất
lên
tới
107,84
tỷ
đồng.
Mặc
dù,
việc
phân
bổ
chi
phí
trên
được
các
Tổng
Công
ty
điện
lực
hạch
toán
riêng
vào
chi
phí
viễn
thông,
không
hạch
toán
vào
giá
thành
phân
phối
điện
nên
không
ảnh
hưởng
đến
giá
thành
điện
nhưng
đã
ảnh
hưởng
đến
kết
quả
kinh
doanh
của
các
đơn
vị.
Theo
cơ
quan
kiểm
toán,
thực
chất
điều
chuyển
chi
phí
thiết
bị
đầu
cuối
1.026
tỷ
đồng
chính
là
việc
chuyển
lỗ
từ
trách
nhiệm
của
EVNTelecom
sang
các
Tổng
công
ty
điện
lực.
Chưa
kể,
các
văn
bản
ban
hành
của
EVN
về
vấn
đề
này
chưa
hợp
lý.
Cơ
quan
Kiểm
toán
khẳng
định,
việc
điều
chuyển
tăng
vốn,
giảm
vốn
giữa
EVNTelecom
và
các
Tổng
công
ty
điện
lực
theo
Quyết
định
số
323A/QĐ-EVN
ngày
31/3/2010
không
bằng
tiền
hay
tài
sản
và
không
theo
hình
thức
thanh
toán
là
không
tuân
thủ
Quy
chế
Quản
lý
tài
chính
năm
2006
và
Điều
lệ
tổ
chức
và
hoạt
động
của
EVN
năm
2007.
Văn
bản
số
1827/EVN-TCKT
ngày
27/5/2011
chướng
dẫn
các
Tổng
công
ty
điện
lực
và
EVN
Telecom
hạch
toán,
phát
hành
hóa
đơn
trên
nguyên
tắc
thanh
toáa
cũng
là
chưa
hợp
lý
vì
giá
trị
hiệu
lực
của
văn
bản
lại
quy
định
hồi
tố
lại
đối
với
các
chi
phí
hỗ
trợ
thiết
bị
đầu
cuối
từ
năm
2006-2008.
Vì
vậy,
Kiểm
toán
Nhà
nước
không
chấp
nhận
việc
phân
bổ
241
tỷ
đồng
chi
phí
hỗ
trợ
thiết
bị
đầu
cuối
của
EVN
Telecom
vào
kết
quả
kinh
doanh
của
các
Tổng
công
ty
điện
lực
như
vậy.
Ngoài
những
rích
rắc
trong
chuyện
đẩy
trách
nhiệm
từ
EVN
Telecom
sang
các
công
ty
điện
lực,
các
quy
định
về
phân
chia
kết
quả
kinh
doanh
viễn
thông
cũng
không
nhất
quán,
quy
chế
tài
chính
kinh
doanh
viễn
thông
thay
đổi
liên
tục.