Để
tạo
sự
đồng
thuận
của
xã
hội,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
từng
bước
công
khai
một
số
thông
tin
nhạy
cảm
mà
trước
đây
nhà
điều
hành
vẫn
có
thói
quen…
“đậy”
lại.
Điểm
lại
những
động
thái
điều
hành
từ
trước
Tết
Nguyên
đán
đến
nay,
có
vẻ
như
như
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
sẵn
sàng
đối
mặt
với
con
“ngáo
ộp”
thanh
khoản
để
kiên
trì
với
mục
tiêu
chủ
đạo:
dọn
dẹp
lại
hệ
thống
ngân
hàng
và
hướng
dòng
vốn
đi
vào
sản
xuất,
đặc
biệt
là
khu
vực
“tam
nông”.
Không
ngại
“ngáo
ộp”
thanh
khoản
Tại
buổi
họp
báo
ngày
14/2,
thêm
một
lần
nữa,
Ngân
hàng
Nhà
nước
khẳng
định:
có
“mươi”
tổ
chức
tín
dụng
lâm
vào
tình
trạng
mất
khả
năng
thanh
toán,
có
nguy
cơ
đổ
vỡ
và
đang
trong
quá
trình
tái
cơ
cấu,
sắp
xếp
lại”.
Thực
ra,
đây
là
vấn
đề
đã
được
nhiều
chuyên
gia
khuyến
cáo
là
nóng
bỏng
nhất
trong
điều
hành
vĩ
mô
của
năm
nay.
Vậy,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
từng
bước
xử
lý
như
thế
nào?
Một
lãnh
đạo
cao
cấp
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
cho
biết:
“Trước
Tết,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
bơm
tiền
rất
mạnh
qua
kênh
nghiệp
vụ
thị
trường
mở
(OMO)
để
giải
quyết
thanh
khoản
và
sau
Tết,
lại
hút
ròng
về
từ
OMO;
đồng
thời
tái
cấp
vốn
cho
những
trường
hợp
thật
cần
thiết”.
Những
diễn
biến
trên
OMO
gần
đây
cho
thấy,
cùng
với
việc
“nới”
khối
lượng
giao
dịch,
Ngân
hàng
Nhà
nước
cũng
điều
chỉnh
kỳ
hạn
giao
dịch
một
cách
linh
hoạt:
trước
Tết,
kỳ
hạn
cho
vay
là
14
và
21
ngày
thì
sau
Tết,
đưa
về
7
và
14
ngày.
Sở
dĩ
Ngân
hàng
Nhà
nước
làm
như
vậy
là
bởi,
nhu
cầu
thanh
khoản
trước
Tết
bao
giờ
cũng
rất
lớn
và
thời
gian
nghỉ
Tết
kéo
dài
nên
khối
lượng
bơm
ra
và
kỳ
hạn
cho
vay
phải
phù
hợp
với
thị
trường.
Còn
sau
Tết,
khi
thanh
khoản
hệ
thống
tạm
dịu
lại
thì
một
mặt,
nhà
điều
hành
thu
tiền
về
và
thu
ngắn
kỳ
hạn
dao
dịch;
mặt
khác,
tái
cấp
vốn
cho
một
số
đơn
vị
có
nguy
cơ
đổ
vỡ
nhằm
hướng
dòng
tiền
này
vào
một
mục
đích
duy
nhất:
hỗ
trợ
thanh
khoản
tức
thời,
không
để
chúng
gây
áp
lực
lên
lạm
phát.
Thứ
hai,
để
tạo
sự
đồng
thuận
của
xã
hội,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
từng
bước
công
khai
một
số
thông
tin
nhạy
cảm
mà
trước
đây
nhà
điều
hành
vẫn
có
thói
quen…
“đậy”
lại.
Đó
là
tiến
hành
phân
loại
hệ
thống
tổ
chức
tín
dụng
thành
4
nhóm
và
công
khai
số
lượng
các
tổ
chức
tín
dụng
yếu
kém
thuộc
nhóm
4
để
khoanh
vùng
và
chữa
trị.
Cách
“chữa
trị”
ở
đây
trước
hết,
không
cho
phép
số
đối
tượng
này
tăng
trưởng
tín
dụng
mà
chỉ
được
phép
gói
gọn
trong
giới
hạn
bằng
với
năm
2011.
Điều
này
bắt
buộc
các
tổ
chức
tín
dụng
diện
này
muốn
tồn
tại
thì
phải
cơ
cấu
lại
danh
mục,
chất
lượng
tài
sản,
tăng
cường
thu
hồi
nợ
để
lành
mạnh
hóa
bảng
cân
đối
tài
sản
và
tiết
giảm
mọi
chi
phí.
Sau
đó,
như
lời
một
Phó
thống
đốc
chia
sẻ
với
người
viết:
“Tất
nhiên,
chúng
tôi
vẫn
bên
cạnh
họ,
sẵn
sàng
tái
cấp
vốn
để
tránh
đổ
vỡ
nhưng
sẽ
giám
sát
từng
ngày,
từng
đồng
và
kiên
quyết
không
để
họ
sử
dụng
tiền
tái
cấp
vốn
không
đúng
mục
đích”.
Trên
thực
tế,
ở
một
số
đơn
vị
thuộc
nhóm
này,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
thành
lập
các
tổ
giám
sát
túc
trực
thường
xuyên,
gia
tăng
hoạt
động
thanh
tra
giám
sát.
Dĩ
nhiên,
song
song
với
quá
trình
chữa
bệnh
cho
một
số
tổ
chức
tín
dụng
yếu
kém
để
từng
bước
sắp
xếp
lại
hệ
thống,
ngoài
vai
trò
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
còn
có
bóng
dáng
của
các
“ông
lớn”
khác.
Không
kể
đến
BIDV
trong
thương
vụ
hợp
nhất
vừa
qua,
ông
Nguyễn
Hòa
Bình,
Chủ
tịch
Hội
đồng
Quản
trị
Vietcombank
cho
biết:
“Nếu
được
giao
nhiệm
vụ,
Vietcombank
sẵn
sàng
thuyết
phục
các
cổ
đông
để
hỗ
trợ
các
ngân
hàng
trong
diện
phải
sáp
nhập
khi
cần
thiết”.
Hướng
vốn
cho
sản
xuất
Điểm
nổi
bật
trong
điều
hành
của
Thống
đốc
Nguyễn
Văn
Bình
ở
những
ngày
đầu
năm
là
mở
ưu
đãi
cho
tín
dụng
sản
xuất
và
kìm
hãm
tín
dụng
đối
với
những
lĩnh
vực
không
ưu
tiên
thông
qua
một
loạt
động
thái
quan
trọng.
Theo
trình
tự
thời
gian,
ngày
31/1/2012,
Ngân
hàng
Nhà
nước
ban
hành
văn
bản
số
428/NHNN
-
CSTT
về
việc
xác
định
lãi
suất
tiền
gửi
VND
của
các
tổ
chức
tín
dụng
Nhà
nước
tại
Ngân
hàng
Chính
sách
xã
hội
năm
2012
là
12,94%/năm.
Đối
tượng
phục
vụ
của
Ngân
hàng
Chính
sách
xã
hội
là
người
nghèo
và
đối
tượng
chính
sách
khác,
việc
giảm
áp
lực
lãi
suất
đầu
vào
cho
Ngân
hàng
Chính
sách
xã
hội
trong
điều
kiện
lãi
suất
thị
trường
17%
-
19%/năm
là
cơ
sở
để
ngân
hàng
này
giảm
lãi
suất
tiền
vay
để
thực
hiện
sứ
mệnh
một
tổ
chức
tài
chính
vi
mô
của
chính
phủ,
trong
việc
giảm
nghèo
và
góp
phần
đảm
bảo
an
sinh
xã
hội.
Cùng
với
chính
sách
ưu
đãi
cho
các
tổ
chức
tài
chính
vi
mô,
trước
đó,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
cho
phép
các
Quỹ
tín
dụng
nhân
dân
cơ
sở
được
huy
động
vốn
với
lãi
suất
14,5%/năm,
cao
hơn
0,5%
so
với
tổ
chức
tín
dụng
khác,
tạo
ưu
thế
về
nguồn
vốn
để
các
tổ
chức
này
hoạt
động.
Thứ
hai,
ngày
2/2/2012,
Ngân
hàng
Nhà
nước
ban
hành
một
loạt
văn
bản
cho
phép
5
tổ
chức
tín
dụng
được
hưởng
ưu
đãi
giảm
tỷ
lệ
dự
trữ
bắt
buộc
VND
(áp
dụng
từ
tháng
2/2012
đến
tháng
7/2012)
có
tỷ
trọng
dư
nợ
cho
vay
“tam
nông”
lớn,
gồm
các
ngân
hàng
thương
mại:
Mê
Kông,
Nhà
Đồng
bằng
sông
Cửu
long,
Quỹ
Tín
dụng
nhân
dân
Trung
ương,
Agribank
và
LienVietPostBank.
Mức
giảm
như
sau:
“Đối
với
tổ
chức
tín
dụng
có
tỷ
trọng
dư
nợ
cho
vay
phát
triển
nông
nghiệp
nông
thôn
trên
tổng
dư
nợ
bình
quân
cuối
các
quý
trong
năm
tài
chính
liền
kề
từ
40%
đến
dưới
70%:
Tỷ
lệ
dự
trữ
bắt
buộc
đối
với
tiền
gửi
bằng
đồng
Việt
Nam
bằng
1/5
(một
phần
năm)
so
với
tỷ
lệ
dự
trữ
bắt
buộc
thông
thường
tương
ứng
với
từng
kỳ
hạn
tiền
gửi”.
Như
vậy,
5
tổ
chức
tín
dụng
nói
trên
sẽ
được
giải
phóng
tới
4/5
khối
lượng
dự
trữ
bắt
buộc,
giúp
họ
cải
thiện
nguồn
vốn
để
cho
vay
nhiều
hơn
đối
với
khu
vực
khuyến
khích.
Song
song
với
mở
“hầu
bao”
cho
tín
dụng
sản
xuất,
Ngân
hàng
Nhà
nước
lại
rất
“hà
tiện”
với
tín
dụng
không
khuyến
khích
như
cho
vay
bất
động
sản,
chứng
khoán
và
tiêu
dùng
khi
khống
chế
mức
tăng
tín
dụng
khu
vực
này
của
năm
2012
là
16%.
Phó
thống
đốc
Nguyễn
Đồng
Tiến
khẳng
định:
“Năm
2012,
Chính
phủ
và
Ngân
hàng
Nhà
nước
sẽ
không
ưu
tiên
tín
dụng
cho
chứng
khoán,
bất
động
sản.
Những
giải
pháp
của
chính
sách
tiền
tệ
hiện
nay
chỉ
tập
trung
cho
ổn
định
vĩ
mô,
đưa
vốn
về
sản
xuất,
doanh
nghiệp
vừa
và
nhỏ
tạo
nhiều
việc
làm;
không
nên
quan
niệm
nới
lỏng
chính
sách
tiền
tệ
để
cứu
thị
trường
chứng
khoán
mà
hãy
để
cho
chúng
tự
vận
hành
theo
quy
luật”.
Xét
về
tổng
thể,
những
động
thái
gần
đây
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
đang
diễn
ra
theo
một
kịch
bản
định
sẵn,
tuy
nhiên
mấu
chốt
của
vấn
đề
hiện
nay
vẫn
là
giảm
lãi
suất.
Trong
điều
kiện
xu
hướng
chỉ
số
giá
tiêu
dùng
(CPI)
đang
giảm
mạnh,
nếu
lãi
suất
không
giảm,
sẽ
là
câu
hỏi
khó
trả
lời.