Dường
như
lấy
của
công
làm
của
riêng
là
hành
vi
phổ
biến,
từ
việc
nhỏ
nhặt
như
lấy
văn
phòng
phẩm
ở
công
ty
mang
về
nhà,
lấn
chiếm
vỉa
hè
để
kinh
doanh
cho
đến
trốn
thuế,
tham
nhũng.
Năm
2011,
Tiến
sỹ
Alan
Phan
có
viết:
“Chuyện
tham
nhũng
của
quan
chức
đã
gây
rất
nhiều
tranh
cãi
trên
trên
khắp
các
mạng
truyền
thông,
nhưng
không
mấy
ai
buồn
nhắc
đến
một
sự
nhũng
lạm
còn
tốn
kém
cho
tài
sản
quốc
gia
gấp
ngàn
lần
từ
phía
tư
nhân
và
người
dân
thường.”
Theo
đó,
dường
như
lấy
của
công
làm
của
riêng
là
hành
vi
phổ
biến
của
người
Việt
Nam,
từ
những
việc
nhỏ
nhặt
như
lấy
văn
phòng
phẩm
ở
công
ty
mang
về
nhà,
lấn
chiếm
vỉa
hè
để
kinh
doanh
cho
đến
trốn
thuế,
tham
nhũng.
Cho
đến
bây
giờ,
vẫn
có
không
ít
bậc
cha
mẹ
có
tư
tưởng
bỏ
ra
vài
chục
đến
vài
trăm
triệu
để
“chạy”
cho
con
cái
vào
cơ
quan
nhà
nước
với
kỳ
vọng
về
một
công
việc
ổn
định,
an
nhàn
mà
còn
có
thể
“gỡ”
lại
được
sau
một
thời
gian.
Cán
bộ
công
chức
(CBCC)
khởi
đầu
cũng
chỉ
là
người
dân
bình
thường
và
đi
làm
với
tư
tưởng
ấy.
Cho
nên
“có
điều
kiện
mà
không
tham
nhũng
thì
chỉ
có
dại”.
Những
điều
kiện
như
cỗ
bày
ra
trước
mắt
ấy
là
gì?
Làm
tới
đi,
pháp
luật
thì
phải
từ
từ
Luật
Phòng
chống
tham
nhũng
đã
có,
thế
nhưng
những
người
trong
ngành
đều
đánh
giá
là
các
quy
định
quá
chung
chung,
chỉ
mang
tính
hình
thức
và
nhiều
nội
dung
đã
lạc
hậu.
Trong
đó,
đối
tượng
có
thể
bị
xử
lý
liên
quan
đến
việc
làm
sai
quy
định
của
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng
(được
quy
định
tại
điều
68)
rất
đa
dạng.
Hình
thức
xử
lý
được
quy
định
trong
Điều
69.
Đối
với
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
(là
nhóm
chủ
yếu
trong
số
những
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn)
thì
hình
thức
xử
lý
phổ
biến
đối
với
họ
(nếu
chưa
đến
mức
xử
lý
hình
sự)
bao
gồm
khiển
trách,
cảnh
cáo,
hạ
bậc
lương,
hạ
ngạch,
cách
chức,
buộc
thôi
việc.
Nếu
hành
vi
vi
phạm
đến
mức
độ
nguy
hiểm
cao
gây
thiệt
hại
lớn
về
tiền
và
tài
sản
của
Nhà
nước
thì
sẽ
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự
theo
các
quy
định
về
tham
nhũng
(bao
gồm
7
tội
danh),
bị
truy
cứu
về
tội
danh
khác
mà
thông
thường
là
tội
thiếu
trách
nhiệm
gây
hậu
quả
nghiêm
trọng.
(Điều
285
của
Bộ
luật
hình
sự
năm
1999).
Một
Chánh
án
TAND
tỉnh
cho
biết
các
mức
“gây
thiệt
hại”
và
mức
độ
hình
phạt
được
quy
định
trong
Nghị
Quyết
của
Hội
đồng
Tòa
án
Nhân
dân
tối
cao
tùy
theo
trường
hợp
cụ
thể.
N
hưng
trong
thực
tế
đã
gặp
những
trường
hợp
mà
Nghị
Quyết
cũng
chưa
có!
Kê
khai
tài
sản
là
một
nội
dung
trọng
tâm
trong
luật
Phòng
chống
tham
nhũng.
Mặc
dù
việc
chấp
hành
Luật
đạt
gần
100%,
việc
xác
minh
cũng
được
thực
hiện
nhưng
có
mấy
quan
chức
để
tài
sản
đứng
tên
mình?
Họ
có
rất
nhiều
người
thân
để
giúp
việc
này.
Mà
quan
trọng
hơn,
kết
quả
xác
minh
việc
kê
khai
tài
sản
cũng
ít
khi
được
công
khai.
Một
trong
những
lĩnh
vực
mà
CBCC
dễ
tham
nhũng
nhất,
ấy
là
đất
đai.
Với
hệ
thống
quản
lý
đất
đai
rườm
rà,
pháp
luật
còn
chưa
hoàn
thiện
và
thiếu
thông
tin
minh
bạch
về
tài
liệu
đất
đai,
lĩnh
vực
này
tạo
ra
quá
nhiều
cơ
hội
để
tham
nhũng
từ
quá
trình
cấp
giấy
chứng
nhận
quyền
sử
dụng
đất,
thu
hồi
và
cấp
đất,
bồi
thường
và
tái
định
cư.
Theo
Nghiên
cứu
năm
2010
của
Viện
Khoa
học
Thanh
tra
và
Công
tác
T&C,
69%
hộ
gia
đình
phải
mất
chi
phí
trung
bình
không
chính
thức
cho
cán
bộ
địa
chính
để
có
được
thông
tin
“bắt
buộc
công
bố
theo
luật
pháp”
là
811.000
VND.
Cuối
kỳ
họp
Quốc
hội
lần
này,
Luật
đất
đai
sửa
đổi
mới
được
thông
qua.
Công
tác
phòng
chống
tham
nhũng
trong
những
năm
gần
đây
có
vẻ
rất
quyết
liệt.
Nhiều
đại
án
tham
nhũng
đã
bị
phanh
phui
như
vụ
cán
bộ
ALC
II
(thuộc
Ngân
hàng
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
Việt
Nam)
gây
thiệt
hại
hơn
531,8
tỷ
đồng,
tham
ô
gần
80
tỷ
đồng,
lừa
đảo
chiếm
đoạt
hơn
60,9
tỷ
đồng
và
lợi
dụng
chức
vụ
quyền
hạn
trong
khi
thi
hành
công
vụ,
gây
thiệt
hại
hơn
3,95
tỷ
đồng.
Vụ
Huỳnh
Thị
Huyền
Như
(nguyên
cán
bộ
Vietinbank
chi
nhánh
TP
HCM)
lừa
đảo
chiếm
đoạt
của
9
công
ty,
3
ngân
hàng
và
3
cá
nhân
khoảng
4.000
tỷ
đồng.
Vụ
Vinashin,
bầu
Kiên,…
đã
gây
bão
trên
các
mặt
báo.
Cũng
theo
báo
cáo
về
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2013
được
Tổng
thanh
tra
Chính
phủ
Huỳnh
Phong
Tranh
trình
bày
thì
trong
năm
2013,
ngành
thanh
tra
phát
hiện
80
vụ,
90
đối
tượng
có
hành
vi
liên
quan
đến
tham
nhũng
với
số
tiền
117,5
tỉ
đồng,
kiến
nghị
thu
hồi
117,5
tỉ
đồng;
đã
thu
59
tỉ
đồng,
kiến
nghị
xử
lý
hành
chính
đối
với
4
tập
thể,
28
cá
nhân,
chuyển
cơ
quan
điều
tra
11
vụ,
34
đối
tượng.
Tuy
nhiên
thực
tế
cách
xử
lý
bình
thường
trong
các
trường
hợp
chưa
bị
phanh
phui
thì
sao?
Nếu
chẳng
may
bị
các
cơ
quan
bảo
vệ
pháp
luật
phát
hiện
thì
sẽ
có
đủ
các
lý
do
được
đưa
ra
để
xin
“xử
lý
nội
bộ”,
“đóng
cửa
bảo
nhau”.
Nếu
nghiêm
trọng,
có
thể
chuyển
sang
“chạy”
để
thay
đổi
tội
danh.
Từ
đó
dẫn
đến
kết
quả
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
và
yêu
cầu
bồi
thường
thiệt
hại
chưa
tích
cực
và
hiệu
quả.
Nhiều
vụ
tham
nhũng
đáng
lẽ
phải
xử
lý
hình
sự
nhưng
chỉ
xử
bằng
các
biện
pháp
hành
chính,
kinh
tế.
Có
lẽ
đó
là
một
nguyên
nhân
để
trong
phiên
họp
Quốc
hội
ngày
7/11/2013,
Đại
biểu
Lê
Như
Tiến
phải
nói:
“Gần
đây,
có
hiện
tượng
đáng
buồn
là
người
dân
đã
không
còn
mặn
mà,
thiếu
lửa,
giảm
nhiệt
trong
phòng
chống
tham
nhũng.
Thứ
nhất
là
vì
khi
phát
hiện
tham
nhũng,
cung
cấp
thông
tin
cho
các
cơ
quan
có
trách
nhiệm
nhưng
không
được
xử
lý,
cũng
không
phản
hồi,
im
lặng
đáng
sợ.”
Cấp
trên
cũng
tham
nhũng
hay
chính
là
văn
hóa
công
sở
Lãnh
đạo
là
yếu
tố
tác
động
mạnh
mẽ
nhất
đến
văn
hóa
doanh
nghiệp.
Song
nhiều
trường
hợp
để
trở
thành
lãnh
đạo
không
cần
lắm
đến
trình
độ
chuyên
môn,
đạo
đức
mà
phải
mất
nhiều
của
cải.
Không
phải
chỉ
sau
câu
phát
biểu
của
đại
biểu
Quốc
hội
Trần
Trọng
Dực
hồi
năm
ngoái:
“Để
đỗ
được
công
chức
ở
Hà
Nội
phải
mất
không
dưới
100
triệu
đồng”
thì
người
ta
mới
biết
đến
thực
trạng
đau
lòng
ấy.
Cũng
như
trên
đã
nói,
tư
tưởng
của
người
dân
lâu
nay
là
“chạy”
rồi
“gỡ”,
cho
nên
sau
khi
lên
chức
rồi,
lãnh
đạo
phải
kiếm
cơ
hội
để
bù
đắp.
Cơ
hội
ấy
là
tham
nhũng,
nhận
hối
lộ.
Được
lãnh
đạo
tạo
điều
kiện
như
vậy,
cán
bộ
nhân
viên
cũng
không
thể
một
mình
một
kiểu
tách
biệt
khỏi
văn
hóa
công
ty
nếu
muốn
ở
lại.
Vòng
luẩn
quẩn
ấy
cứ
tiếp
tục
và
khiến
cho
tham
nhũng,
tiếp
tay
cho
tham
nhũng
trở
thành
hành
vi
cần
thiết
để
người
cán
bộ
có
thể
tồn
tại,
có
cơ
hội
thăng
chức,
thăng
quyền
và
thu
nhập.
Đó
là
một
trong
những
lý
do
dẫn
đến
suy
thoái
đạo
đức
cán
bộ.
Cơ
chế
xin,
cho
Cơ
chế
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
XHCN
của
Việt
Nam
vẫn
còn
nhiều
dấu
ấn
của
cơ
chế
kinh
tế
trong
thời
kỳ
bao
cấp
mà
người
ta
hay
gọi
là
cơ
chế
xin
–
cho.
Tức
là
mọi
hoạt
động
của
cơ
sở
đều
phải
đặt
trong
một
kế
hoạch
chung
của
ngành,
của
địa
phương,
mọi
hoạt
động
của
các
ngành,
các
địa
phương
phải
đặt
trong
một
kế
hoạch
chung
của
cả
nước,
gọi
là
Kế
hoạch
Nhà
nước.
Kế
hoạch
này
được
tổng
hợp,
cân
đối,
rồi
trình
Quốc
hội
phê
duyệt,
Thủ
tướng
Chính
phủ
ký
lệnh
ban
hành.
Bởi
thế,
mọi
hoạt
động
của
cơ
sở
(người
xin)
đều
phải
chờ
cấp
cao
hơn,
rồi
đến
cấp
cao
hơn
nữa
…
phê
duyệt
(người
cho).
Cơ
chế
này
tạo
ra
nhiều
lỗ
hổng
trong
thủ
tục
hành
chính,
luật
pháp…
để
“người
cho”
có
cớ
bắt
“người
xin”
phải
chờ
đợi.
Thế
là
muốn
xong
việc,
người
xin
phải
biết
điều.
Người
dân
và
doanh
nghiệp
đều
tự
nguyện
Khảo
sát
của
WB
cho
thấy
hầu
như
là
người
dân
tự
nguyện
trả
tiền
ngoài
quy
định,
kể
cả
khi
không
bị
yêu
cầu.
Người
ta
có
thể
cho
rằng
“không
trả
tiền
thì
không
xong
việc”
nhưng
thực
tế
là
chỉ
có
17%
số
ý
kiến
khảo
sát
nghĩ
như
vậy.
“Tính
bầy
đàn”
và
tinh
thần
“uống
nước
nhớ
nguồn”
của
người
Việt
Nam
có
tỷ
lệ
tương
đương
nhau.
Một
sự
thật
là
cái
việc
thấy
người
ta
làm
thế
nào
thì
làm
theo,
chính
là
nguyên
nhân
tạo
thành
sự
kiện
“nhiều
người
làm
như
thế”.
Suy
nghĩ
“cơ
quan
nhà
nước
là
phải
quan
liêu
tham
nhũng”
đã
ăn
sâu
vào
tư
tưởng
của
đa
số
người
dân,
và
trả
phí
bôi
trơn
trở
thành
một
việc
bình
thường
hay
còn
là
một
thông
lệ
giao
dịch.
Bởi
thế,
dù
có
phải
đối
mặt
với
thực
tế
tham
nhũng
ngay
trước
mắt
thì
phản
ứng
chủ
yếu
của
người
dân
là
“tâm
sự
với
anh
em,
bạn
bè”.
Chỉ
những
vụ
thật
to,
được
cơ
quan
chức
năng
và
báo
chí
phanh
phui
thì
những
người
dân
nhỏ
bé
hiền
lành
mới
bắt
đầu
lên
tiếng.
Một
phần
nguyên
nhân
của
thực
tế
này
cũng
là
do
cơ
chế
bảo
vệ
người
tố
cáo
tham
nhũng
còn
yếu
kém.
Doanh
nghiệp
chọn
cách
tương
tự.
49%
số
DN
trong
cuộc
khảo
sát
năm
2005
và
35%
số
doanh
nghiệp
trong
cuộc
khảo
sát
năm
2012
cho
rằng
"Đưa
hối
lộ
là
cách
làm
nhanh
và
dễ
nhất".
Quan
trọng
không
kém
là
"Chi
phí
bôi
trơn
rất
nhỏ
so
với
lợi
ích
mang
lại"
(46%
-
năm
2005,
32%
-
năm
2010).
Với
sự
“ủng
hộ”
từ
người
dân
như
vậy,
cán
bộ
dại
gì
không
tham
nhũng?
Hải
Minh
Theo
Trí
Thức
Trẻ