Sự
ra
đi
của
các
thương
hiệu
lớn
khiến
nhiều
người
đặt
câu
hỏi:
Thương
hiệu
Việt
có
khả
năng
tồn
tại?
Do
mình
hại
mình
Thiếu
kiến
thức
quản
trị
về
thương
hiệu
tất
yếu
dẫn
đến
sự
mai
một
của
nhiều
thương
hiệu.
Theo
các
chuyên
gia
thương
hiệu,
nguyên
nhân
đầu
tiên
khiến
các
thương
hiệu
Việt
đang
bị
“biến
mất”
là
do
các
chủ
DN
không
nhận
thức
đúng
tầm
quan
trọng
của
việc
làm
thương
hiệu,
dẫn
đến
sự
lãng
quên
của
người
tiêu
dùng.
Chẳng
hạn,
thương
hiệu
Thorakao
từng
được
người
tiêu
dùng
ưa
chuộng
vào
những
năm
1960-1970
và
những
năm
đầu
thập
niên
1990,
Thorakao
đã
trở
thành
thương
hiệu
có
tên
tuổi
trên
thị
trường
nội
địa
và
được
đông
đảo
kiều
bào
ở
nước
ngoài
tin
dùng.
Nhiều
tập
đoàn
đa
quốc
gia
khi
qua
Việt
Nam
làm
ăn
cũng
đã
đặt
vấn
đề
mua
lại
hoặc
mời
Thorakao
liên
doanh.
Tuy
nhiên,
chủ
nhân
thương
hiệu
này
đã
kiên
định
với
lập
trường:
“Dù
thế
nào
đi
nữa
cũng
phải
giữ
gìn
nghề
gia
truyền”.
Kiên
định
là
vậy
nhưng
trong
chiến
lược
kinh
doanh,
Thorakao
dường
như
không
hề
quan
tâm
đến
việc
quảng
bá
thương
hiệu
bởi
cho
rằng:
“Hễ
sản
phẩm
tốt
thì
thương
hiệu
ắt
sẽ
có
thị
trường”.
Chính
vì
im
hơi
lặng
tiếng
nên
mặc
dù
Thorakao
vẫn
có
mặt
trên
thị
trường,
doanh
thu
xuất
khẩu
khá
cao,
nhưng
cái
tên
Thorakao
vẫn
chỉ
tồn
tại
mờ
nhạt,
thậm
chí
không
ít
người
còn
cho
rằng,
công
ty
này
đang
hoạt
động
cầm
chừng.
Tương
tự,
nước
tương
Nam
Dương
dù
được
người
tiêu
dùng
một
thời
ưa
chuộng
và
thương
hiệu
cũng
được
xếp
vào
loại
“bền
bỉ,
vượt
thời
gian”,
nhưng
thương
hiệu
này
cũng
đang
bị
“nhạt
dần”
trong
lòng
người
tiêu
dùng.
Theo
bà
Liên
Phương,
Giám
đốc
Công
ty
Nghiên
cứu
thị
trường
Epinion,
nguyên
nhân
khác
khiến
thương
hiệu
Việt
đang
bị
lãnq
quên
là
do
người
tiêu
dùng
Việt
Nam
vẫn
hoài
nghi,
thậm
chí
dị
ứng
với
sản
phẩm
trong
nước.
Một
phần
do
tâm
lý
vọng
ngoại,
phần
khác
do
sản
phẩm
Việt
chưa
thực
sự
hiểu
người
tiêu
dùng,
dẫn
đến
chiến
lược
thương
hiệu
sai
và
cũng
chưa
tạo
được
niềm
tin
đối
với
người
tiêu
dùng.
Kết
quả
nghiên
cứu
của
Epinion
cho
thấy,
60%
người
tiêu
dùng,
nhất
là
người
tiêu
dùng
trẻ,
có
quan
niệm
tiêu
cực
về
thương
hiệu
Việt
vì
cho
rằng,
sản
phẩm
lúc
đầu
rất
tốt
nhưng
càng
về
sau
chất
lượng
không
ổn
định
và
đảm
bảo;
40%
cho
rằng
thương
hiệu
Việt
chưa
hiểu
người
tiêu
dùng.
Để
thương
hiệu
Việt
không
dần
bị
biến
mất,
bà
Phương
khuyến
cáo:
“Yếu
tố
quan
trọng
nhất
là
phải
biết
chất
lượng
sản
phẩm
đến
từ
đâu
và
duy
trì
thế
nào
để
đáp
ứng
nhu
cầu
người
tiêu
dùng.
Muốn
làm
được
điều
này
thì
phải
biết
lắng
nghe
người
tiêu
dùng
và
phải
thực
hiện
tốt
việc
kết
hợp
giữa
chiến
lược
kinh
doanh
và
thương
hiệu”.
Nhiều
khảo
sát
cũng
cho
biết,
số
DN
đánh
giá
đúng
tầm
quan
trọng
của
việc
nghiên
cứu
thị
trường,
lắng
nghe
phản
hồi
của
người
tiêu
dùng
trước
khi
đưa
ra
các
quyết
định
về
chiến
lược
kinh
doanh
cũng
như
coi
trọng
chiến
lược
về
marketing
và
thương
hiệu
còn
khá
hạn
chế.
Trong
khi
đó,
việc
nghiên
cứu
và
khảo
sát
thị
trường
được
thực
hiện
rất
bài
bản
và
thường
xuyên
tại
hầu
hết
các
DN
nước
ngoài.
Lấy
ví
dụ
về
Nescafé,
dù
đã
trở
thành
thương
hiệu
toàn
cầu
nhưng
khi
qua
Việt
Nam,
để
thương
hiệu
không
bị
mai
một
và
cũng
là
cách
chiếm
được
cảm
tình
người
tiêu
dùng
Việt,
thương
hiệu
này
đã
mạnh
dạn
đổi
gu
cà
phê
cho
người
Việt.
Ông
Lê
Quang
Phúc,
Chủ
tịch
HĐQT
Công
ty
CP
Giải
pháp
phát
triển
DN
BDSC,
cũng
cho
rằng:
“Để
nuôi
dưỡng
thương
hiệu,
các
DN
Việt
Nam
cũng
cần
hiểu
người
tiêu
dùng
và
có
cách
làm
thương
hiệu
riêng
cho
người
Việt”.
Tâm
đắc
ý
kiến
này,
bà
Bích
Liễu,
Trưởng
phòng
thị
trường
Công
ty
Tân
Hiệp
Phát,
cũng
khẳng
định:
“Thương
hiệu
Trà
xanh
không
độ
được
nhiều
người
nhớ
là
do
trong
chiến
lược
sản
phẩm,
chúng
tôi
luôn
tuân
thủ
tiêu
chí:
Không
cung
cấp
những
gì
mình
có
mà
chỉ
đưa
ra
những
sản
phẩm
người
tiêu
dùng
cần”.
Do
ta
hại
mình
|
Cạnh
tranh
không
lành
mạnh
đã
khiến
nhiều
thương
hiệu
tự
chết
dần. |
Do
áp
lực
cạnh
tranh,
các
DN
đang
phải
đua
nhau
tung
ra
nhiều
chiêu
thức
cạnh
tranh.
Tuy
nhiên,
trên
thị
trường
thời
gian
qua
đã
có
không
ít
sản
phẩm
do
cách
làm
thương
hiệu
đã
khiến
người
tiêu
dùng
“ngoảnh
mặt”.
Đơn
cử
gần
đây,
các
thương
hiệu
như
mì
gói,
nước
tương
thay
vì
quảng
cáo
để
nâng
cao
chất
lượng
sản
phẩm
thì
một
số
DN
lại
tung
ra
những
chiêu
thức
cạnh
tranh
không
lành
mạnh,
dọa
người
tiêu
dùng
về
những
hợp
chất
có
hại
trong
các
sản
phẩm
của
đối
thủ.
Như
“mì
Omachi
rất
ngon
mà
không
sợ
nóng"
vì
làm
bằng
khoai
tây,
nước
tương
Chinsu
không
có
chứa
3-MCPD
nên
an
toàn
cho
cả
nhà,
hoặc
mì
Tiến
Vua
không
sử
dụng
dầu
chiên
đi
chiên
lại
nhiều
lần,
không
chứa
transfat
(loại
chất
béo
gây
chứng
đột
quỵ,
đau
tim
và
bệnh
mạch
vành)...
Điều
đáng
nói
là
khi
đưa
ra
các
chiêu
thức
quảng
cáo
này,
một
số
thương
hiệu
lại
rơi
vào
thế
“gậy
ông
đập
lưng
ông”.
Chẳng
hạn,
theo
kết
quả
phân
tích
của
Công
ty
CP
Khoa
học
công
nghệ
Sắc
ký
Hải
Đăng,
trong
một
gói
mì
Tiến
Vua,
tỷ
lệ
chất
transfat
là
0,097%
chứ
không
phải
là
0
như
đã
quảng
cáo.
Hoặc
quảng
cáo
mì
Tiến
Vua
bò
cải
chua
với
sợi
mì
không
phẩm
màu
độc
hại
E
102,
nhưng
qua
kiểm
tra,
mì
Tiến
Vua
(loại
cũ)
và
một
số
loại
khác
đều
chứa
E
102.
Hay
mì
khoai
tây
Omachi
chỉ
có
5%
nguyên
liệu
là
khoai
tây.
Rõ
ràng,
sau
mỗi
sự
vụ
được
tung
hê
và
làm
rõ
trắng
đen,
các
thương
hiệu
trên
đều
bị
giảm
doanh
số
đáng
kể.
Về
hiện
tại,
tuy
các
sản
phẩm
chưa
mất
đi,
nhưng
rõ
ràng
sức
sống
và
uy
tín
thương
hiệu
đang
bị
mai
một
dần
trong
lòng
người
tiêu
dùng.
Theo
báo
cáo
vừa
hoàn
thành
của
dự
án
thương
hiệu
châu
Á
do
B&Company
Việt
Nam
phối
hợp
thực
hiện
cùng
Nikkei
BP
Consulting:
“So
với
trước
đây,
các
DN
Việt
Nam
đã
chú
trọng
hơn
đến
việc
xây
dựng
thương
hiệu.
Tuy
nhiên,
các
DN
Việt
Nam
nên
chú
ý
hơn
đến
tính
sáng
tạo,
đột
phá
khi
xây
dựng
hình
ảnh
thương
hiệu
của
mình.
Điều
này
gắn
liền
với
việc
xây
dựng
một
chiến
lược
phát
triển
sản
phẩm
và
dịch
vụ
đồng
bộ,
trong
đó
đặt
trọng
tâm
vào
việc
mang
lại
lợi
ích
tối
đa
cho
người
tiêu
dùng
và
tích
hợp
các
giá
trị
gia
tăng
cho
sản
phẩm,
dịch
vụ,
đồng
thời
gắn
liền
với
việc
tạo
hình
ảnh
và
phong
cách
riêng
cho
thương
hiệu.
Điều
này
sẽ
giúp
cho
thương
hiệu
có
được
một
“tính
cách”
riêng
và
có
khả
năng
để
lại
dấu
ấn
sâu
đậm
trong
nhận
thức
của
người
tiêu
dùng”.
Bán
rồi
có
mất?
|
Câu
hỏi
được
lặp
lại
sau
nhiều
bài
học
đắt
giá,
liệu
tư
duy
về
thương
hiệu
và
thương
hiệu
toàn
cầu
có
thay
đổi? |
Gần
đây,
nhiều
thương
vụ
mua
bán,
sáp
nhập
liên
tiếp
diễn
ra,
điển
hình
như
vụ
X-Men,
vụ
Công
ty
CP
Diana
bán
toàn
bộ
cổ
phiếu
cho
Công
ty
Unicharm
(Nhật
Bản).
Tiếp
đến
là
thương
hiệu
Phở
24
bán
100%
cho
Highlands
Coffee.
Rồi
Highlands
Coffee
lại
bán
50%
cổ
phần
cho
Jollibee
(Philippines),
kế
tiếp
là
vụ
Kinh
Đô
vừa
hoàn
tất
việc
sáp
nhập
với
Vinabico
và
Vinabico
sẽ
trở
thành
công
ty
TNHH
do
Kinh
Đô
sở
hữu
100%
vốn,
Tập
đoàn
Lotte
cũng
vừa
nắm
giữ
hơn
38%
cổ
phần
của
Bibica...
Trước
hàng
loạt
thương
hiệu
nổi
tiếng
của
Việt
Nam
bán
lại
cho
nước
ngoài,
không
ít
người
đã
đặt
câu
hỏi:
“Liệu
các
thương
hiệu
Việt
bán
đi
có
bị
mất
không?
Thương
hiệu
Việt
có
còn
tồn
tại
trong
những
cuộc
cạnh
tranh
sắp
tới?”.
Câu
hỏi
này
đặt
ra
vì
DN
Việt
Nam
từng
có
những
bài
học
đắt
giá
khi
bán
thương
hiệu
cho
nước
ngoài.
Ví
dụ
điển
hình
nhất
vẫn
là
kem
đánh
răng
Dạ
Lan.
Trong
khoảng
thời
gian
từ
1990-1995,
kem
đánh
răng
Dạ
Lan
chiếm
tới
30%
thị
phần
kem
đánh
răng
cả
nước.
Tuy
nhiên,
ông
chủ
thương
hiệu
này
đã
bán
Dạ
Lan
cho
tập
đoàn
Colgate
Mỹ
với
giá
3
triệu
USD,
trong
khi
định
giá
thương
hiệu
này
lên
đến
trên
20
triệu
USD.
Với
3
triệu
USD
mua
lại
Dạ
Lan
và
Sơn
Hải,
đến
nay
Colgate
đã
trở
thành
một
thương
hiệu
mạnh
trên
thị
trường
hóa
mỹ
phẩm
Việt
Nam.
Còn
Dạ
Lan
dù
đã
quay
trở
lại
thị
trường,
nhưng
tiêu
thụ
hiện
vẫn
đang
gặp
khó
khăn
giống
y
như
thời
kỳ
mới
ra
đời,
không
có
cơ
hội
trước
các
thương
hiệu
lớn
của
nước
ngoài.
Có
lẽ
đến
bây
giờ,
ông
chủ
thương
hiệu
Dạ
lan
mới
nhận
ra,
để
chiếm
thêm
1%
thị
phần,
cần
phải
tốn
hàng
triệu
USD
cho
chi
phí
tiếp
thị.
Vấn
đề
này
cũng
được
các
thành
viên
Friday
Business
Forum
(một
dự
án
phi
lợi
nhuận
dành
cho
cộng
đồng
DN
Việt
Nam)
đặt
ra.
Một
thành
viên
của
nhóm
là
ông
Lê
Quang
Phúc
cho
rằng:
“Có
hai
khả
năng
dẫn
đến
việc
mua
bán
thương
hiệu.
Một
là,
chiến
lược
đầu
tư
tài
chính,
kiếm
lợi
nhuận;
hai
là,
do
không
trụ
nổi
hoặc
không
còn
khả
năng
dẫn
dắt
thương
hiệu
phát
triển
tốt
hơn”.
Trường
hợp
Highlands
Coffee
mua
Phở
24,
trong
khi
thương
hiệu
này
đang
bị
tuột
dốc
về
độ
tin
cậy
của
người
tiêu
dùng
do
giá
cao
và
chất
lượng
không
đồng
nhất
trong
hệ
thống
chuỗi
cửa
hàng,
có
nhiều
khả
năng
nghiêng
về
mục
tiêu
đầu
tư
tài
chính,
động
cơ
mua
dường
như
xuất
phát
đơn
thuần
từ
kiếm
lời
(nghĩa
là
sẽ
bán
lại
với
giá
cao
hơn).
Có
thể
việc
bán
một
lúc
hai
chuỗi
cà
phê
và
phở
sẽ
gia
tăng
giá
trị
của
thương
vụ
và
quy
mô
mà
Jollibee
muốn
thâm
nhập
thị
trường
Việt
Nam.
X-Men
thì
không
trụ
nổi
do
áp
lực
cạnh
tranh,
còn
Diana
và
Phở
24
nếu
tiếp
tục
một
mình
sẽ
không
phát
triển
được
thương
hiệu
ra
thế
giới,
nên
các
ông
chủ
này
đã
chọn
chiến
lược
tạm
gọi
là
“gửi
con”
để
kỳ
vọng
thương
hiệu
của
mình
sẽ
phát
triển
xa
hơn.
Và
câu
chuyện
mua
bán
vào
thời
điểm
này
chính
là
con
đường
ngắn
nhất
để
các
thương
hiệu
Việt
củng
cố
sức
mạnh,
vươn
ra
thế
giới.
Ông
Đỗ
Anh
Tú,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
Diana,
từng
khẳng
định:
“Việc
Unicharm
trở
thành
cổ
đông
nắm
cổ
phần
chi
phối
sẽ
giúp
Diana
cải
tiến
về
công
nghệ,
phát
triển
sản
phẩm
và
đẩy
mạnh
xuất
khẩu
thông
qua
mạng
lưới
rộng
khắp
toàn
cầu
của
Unicharm”.
Còn
Kinh
Đô
khi
sáp
nhập
với
Vinabico
cũng
cho
biết,
tận
dụng
được
thế
mạnh
của
Vinabico
ở
các
sản
phẩm
bánh
tươi,
mảng
sản
phẩm
Kinh
Đô
chưa
mạnh.
Bên
cạnh
đó,
sản
phẩm
kẹo
trang
trí
của
Vinabico
gần
như
không
có
đối
thủ
trong
nước,
lại
được
xuất
khẩu
nhiều.
Ngược
lại,
Vinabico
cũng
tận
dụng
được
hiệu
quả
hệ
thống
phân
phối
mạnh
với
120.000
điểm
bán
hàng
trên
cả
nước
của
Kinh
Đô.
Theo
báo
cáo
thường
niên
năm
2011
của
Vinabico,
lượng
hàng
bán
nhờ
tận
dụng
hệ
thống
này
chiếm
tỷ
trọng
hơn
70%
tổng
doanh
thu
năm
2011
của
Công
ty.
Về
thương
vụ
tay
ba
Jollibee,
Highlands
Coffee
và
Phở
24,
nếu
Jollibee
dự
định
sẽ
khai
thác
thương
hiệu
Phở
24
cho
toàn
chuỗi
bán
lẻ
của
họ
ở
Philippines
và
dùng
nó
khai
thác
thị
trường
thế
giới
thì
khi
đó,
dòng
tiền
trong
tương
lai
sẽ
rất
lớn
và
con
số
20
triệu
USD
được
xem
là
rẻ.
Ông
Trần
Hoàng,
Chủ
tịch
kiêm
Tổng
giám
đốc
Công
ty
Vietnam
Marcom,
cũng
cho
rằng,
Phở
24
sau
khi
bán
sẽ
tốt
hơn,
còn
Highlands
Coffee
vẫn
là
ẩn
số.
Mua
bán,
sáp
nhập
là
quy
luật
tất
yếu
của
các
thị
trường
mới
nổi,
những
nước
trong
khu
vực
như
Thái
Lan,
Singapore...
cũng
từng
trải
qua
giai
đoạn
tương
tự
như
Việt
Nam
hiện
nay.
Trong
bối
cảnh
kinh
tế
mở
cửa,
sản
xuất,
kinh
doanh
đình
trệ,
các
DN
Việt
Nam
rất
khó
bảo
vệ
thương
hiệu.
Vì
vậy,
DN
rất
cần
sự
định
hướng,
dẫn
dắt
của
các
hiệp
hội,
bộ,
ngành
và
Chính
phủ.
Lý
giải
thêm
nguyên
nhân
các
DN
lâm
vào
tình
cảnh
phải
bán
thương
hiệu,
ông
Phúc
cho
rằng,
ngoài
thực
tế
khó
khăn
do
tình
hình
kinh
tế,
các
DN
Việt
Nam
thường
bị
hạn
chế
trong
cách
giữ
và
phát
triển
thương
hiệu,
nhận
thức
về
sở
hữu
và
điều
hành
còn
kém,
thường
áp
dụng
cùng
một
cách
quản
lý
trong
cách
làm
kinh
doanh
và
thay
đổi
phương
pháp
quản
lý
rất
chậm,
trong
khi
tốc
độ
kinh
tế
lại
phát
triển
quá
nhanh
nên
dẫn
tới
bị
suy
yếu.
Với
các
thương
hiệu
hoạt
động
trong
lĩnh
vực
ẩm
thực
như
Phở
24,
Highlands
Coffee,
ông
Nanthorn
Limtrakarn,
Phó
chủ
tịch
Hiệp
hội
Quản
trị
doanh
nghiệp
Thái
Lan,
cho
rằng:
“Điểm
yếu
của
DN
Việt
Nam
là
quá
ít
kinh
nghiệm,
chuyên
môn
để
tổ
chức
một
hệ
thống
quản
lý
nhượng
quyền
chặt
chẽ
và
có
khoa
học
để
chinh
phục
thị
trường
nội
địa
và
vươn
ra
thế
giới.
Tuy
nhiên,
đem
thực
phẩm
Việt
Nam
đi
chinh
phục
thị
trường
thế
giới
thì
chỉ
có
chính
DN
Việt
mới
làm
được,
vì
chỉ
có
họ
mới
có
tình
yêu
và
niềm
tự
hào
về
sản
phẩm
của
mình”.
Mặc
dù,
theo
ý
kiến
của
hầu
hết
các
chuyên
gia
về
thương
hiệu,
dù
các
thương
hiệu
Việt
bán
cho
ai
thì
thương
hiệu
đó
cũng
không
hề
mất
đi.
Trong
sân
chơi
toàn
cầu,
quan
trọng
là
thương
hiệu
đó
từ
quốc
gia
nào
chứ
không
phải
hễ
người
khác
điều
hành
thì
thương
hiệu
đó
sẽ
bị
mất.
Tuy
nhiên,
ông
Trần
Hoàng
khẳng
định:
“Các
thương
hiệu
Việt
chỉ
thật
sự
không
bị
mất
đi
khi
thương
hiệu
đó
đạt
được
bề
dày
uy
tín,
có
được
sự
tinh
túy,
mang
được
hồn
Việt,
cốt
cách
của
Việt
Nam.
Chẳng
hạn,
gốm
sứ
Minh
Long
nếu
bán
đi
thì
vẫn
là
niềm
tự
hào
của
thương
hiệu
Việt,
nhưng
một
số
sản
phẩm
khác
nếu
chưa
đạt
độ
tinh
túy,
bề
dày
uy
tín
thương
hiệu
tại
thị
trường
trong
nước
thì
nếu
bán
cũng
không
có
ý
nghĩa
gì
cả
và
việc
mất
thương
hiệu
sẽ
rất
có
khả
năng
xảy
ra”.
Các
thương
vụ
lớn
gần
đây
Phở
24,
Highlands
Coffee
bán
lại
cho
Jollibee:
20
triệu
USD
Thương
vụ
tại
Việt
Nam
nằm
trong
chiến
lược
mở
rộng
của
Jollibee
Food
Corp.
(JFC).
JFC
đã
mua
lại
50%
cổ
phần
của
tập
đoàn
SuperFoods,
tập
đoàn
sở
hữu
chuỗi
Highlands
Coffee
tại
Việt
Nam,
hệ
thống
nhà
hàng
nhượng
quyền
thương
mại
Hard
Rock
Café
tại
Macau,
Hồng
Kông
và
Việt
Nam,
hệ
thống
Phở
24
tại
Việt
Nam
và
các
nước
châu
Á
khác.
Với
hàng
loạt
các
vụ
thâu
tóm
trên,
Jollibee
đặt
mục
tiêu
trở
thành
chuỗi
cửa
hàng
số
1
tại
châu
Á
và
cuối
cùng
là
có
tên
trong
danh
sách
những
thương
hiệu
hàng
đầu
thế
giới.
Diana
bán
lại
cho
Unicharm:
184
triệu
USD
Công
ty
CP
Diana
bán
lại
95%
cổ
phần
cho
Unicharm
của
Nhật.
Theo
tạp
chí
The
Asset,
thương
vụ
này
trị
giá
184
triệu
USD.
Đối
với
Unicharm,
sau
nhiều
năm
kinh
doanh
tại
Việt
Nam,
từ
năm
2007,
sản
phẩm
ở
phân
khúc
cao
của
Unicharm
là
băng
vệ
sinh
Sofy
và
tã
giấy
Mamy
Poko
chưa
thể
phát
triển
mạnh
và
đạt
thị
phần
như
mong
đợi
(thị
phần
nhỏ
đến
mức
không
thể
thống
kê
được).
Vì
thế,
mua
lại
Diana,
Unicharm
cùng
lúc
đặt
hai
mục
tiêu:
thị
trường
Việt
Nam
và
trở
thành
trung
tâm
xuất
khẩu
qua
Trung
Quốc
và
cả
Đông
Nam
Á.
Trong
khi
đó,
Diana
muốn
tăng
trưởng
bền
vững
và
tăng
cường
năng
lực
cạnh
tranh
xuất
khẩu
trong
dài
hạn
thì
phải
chọn
1
trong
3
con
đường:
hoặc
tiếp
tục
tự
thân
vận
động
bằng
các
nguồn
vốn
vay
ngân
hàng,
hoặc
phát
hành
cổ
phiếu
ra
công
chúng,
hoặc
sáp
nhập
với
một
đối
tác
chiến
lược
mạnh.
Lotte
thâu
tóm
Bibica:
sở
hữu
35,65%
Việc
thâu
tóm
Bibica
của
tập
đoàn
Lotte
đã
được
thực
hiện
trong
thời
gian
khá
dài,
cụ
thể
mua
4,6
triệu
cổ
phiếu
(tương
đương
30,15%)
trên
sàn
từ
năm
2007,
sau
đó
đến
đầu
năm
2008
mua
thêm
5,5%
cổ
phần,
chiếm
tỷ
lệ
sở
hữu
lên
đến
35,65%.
Tính
đến
3/2012,
chưa
cần
sở
hữu
đến
49%,
nhưng
Lotte
đã
nắm
vị
trí
chủ
chốt
và
quyền
điều
hành
quan
trọng
trong
công
ty
Bibica
thông
qua
hai
chức
danh
quan
trọng
là
chủ
tịch
HĐQT
và
giám
đốc
tài
chính.
Trước
mắt,
thương
vụ
mua
Bibica,
Lotte
đã
có
thể
sản
xuất
sản
phẩm
ngay
tại
Việt
Nam,
thừa
hưởng
trên
20.000
cửa
hàng
phân
phối,
bán
lẻ
của
Bibica,
nên
bánh
kẹo
Lotte
sẽ
sớm
chiếm
lĩnh
thị
trường
Việt
Nam.
Các
cổ
đông
Bibica
lo
ngại,
giống
như
kịch
bản
đã
diễn
ra
ở
nhiều
DN
có
vốn
đầu
tư
trực
tiếp
từ
nước
ngoài
(FDI)
khác,
hoạt
động
trong
nhiều
năm
liền
không
có
lãi
và
dần
dà
Bibica
chỉ
còn
là
công
cụ
phục
vụ
cho
Lotte. |