Năm
2011
giá
vàng
trong
nước
luôn
cao
hơn
nhiều
so
với
giá
vàng
thế
giới
quy
đổi.
Hiện
tượng
này
tiếp
tục
được
chuyển
tiếp
sang
năm
2012.
Thị
trường
vàng
trong
nước
năm
2011
chịu
ảnh
hưởng
không
chỉ
bởi
diễn
biến
phức
tạp
của
giá
vàng
quốc
tế,
mà
còn
bị
chi
phối
nhiều
bởi
những
thay
đổi
chính
sách.
Xu
hướng
này
được
nhận
định
sẽ
còn
tiếp
diễn
trong
năm
2012.
Phía
sau
những
biến
động
đó
là
một
hiện
tượng
kéo
dài
trong
năm
2011
và
chưa
từng
có
trong
lịch
sử:
giá
vàng
trong
nước
luôn
cao
hơn
nhiều
so
với
giá
vàng
thế
giới
quy
đổi.
Hiện
tượng
này
tiếp
tục
được
chuyển
tiếp
sang
năm
2012,
trong
khi
khả
năng
can
thiệp
của
nhà
điều
hành
vẫn
đang
chờ
đợi
các
công
cụ
pháp
lý
còn
"treo"
trước
mặt.
Cùng
với
thực
tế
đó,
người
trong
cuộc
còn
cho
rằng,
hoạt
động
đầu
tư
và
kinh
doanh
vàng
còn
phải
sống
chung
với
rủi
ro
chính
sách.
Cà
phê
cuối
tuần
kỳ
này
VnEconomy
giới
thiệu
góc
nhìn
của
một
nhà
kinh
doanh
vàng
lâu
năm
về
hiện
tượng
trên,
cũng
như
những
biến
động
trong
năm
2011
và
dự
báo
cho
năm
2012,
ông
Trần
Thanh
Hải,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
Cổ
phần
Đầu
tư
và
kinh
doanh
vàng
Việt
Nam
(VGB).
Chào
ông,
được
biết
trước
đây
ông
từng
công
tác
tại
Công
ty
Vàng
bạc
đá
quý
Sài
Gòn
(SJC).
Ông
có
thể
chia
sẻ
lý
do
vì
sao
ông
rời
SJC
để
lập
cho
mình
một
công
ty
riêng?
Tôi
công
tác
tại
SJC
từ
1992
đến
1999
trong
đó
có
3
năm
làm
Trưởng
phòng
kinh
doanh.
Tôi
rời
SJC
để
chuẩn
bị
cho
mình
một
cơ
hội
mới
là
học
tập
tiếp
và
du
học
tại
Mỹ
từ
2004
đến
2007.
Tôi
trở
về
Việt
Nam
đầu
năm
2008
và
cùng
với
SJC
thành
lập
sàn
vàng
đầu
tiên
của
mình
tại
Hà
Nội
với
xu
thế
là
cùng
SJC
nắm
bắt
cơ
hội
kinh
doanh
vàng
mới,
hiện
đại
hơn
và
có
hệ
thống
quản
trị
rủi
ro
tốt
hơn
kiểu
kinh
doanh
vàng
vật
chất
thông
thường.
“Đau
đầu”
với
rủi
ro
chính
sách
Là
một
người
trong
cuộc,
ông
nhìn
nhận
thế
nào
về
diễn
biến
của
giá
vàng
trong
nước
và
quốc
tế
năm
2011
vừa
qua?
Dao
động
của
giá
vàng
thế
giới
và
của
Việt
Nam
trong
năm
vừa
rồi
có
khoảng
cách
lớn
nhất
trong
10
năm
trở
lại
đây.
Cụ
thể,
giá
thế
giới
ở
đỉnh
cao
nhất
là
1.923
USD/oz
vào
cuối
tháng
9,
và
chỉ
hơn
1.300
USD/oz
vào
giữa
tháng
1,
khoảng
chênh
lệch
là
hơn
600
USD/ouce,
trong
đó,
độ
lệch
chuẩn
là
310,4
USD/oz,
cao
nhất
trong
10
năm.
Tương
tự,
tại
Việt
Nam,
giá
vàng
SJC
lúc
lên
đỉnh
vào
cuối
tháng
8
là
49,2
triệu
đồng/lượng
so
với
thấp
điểm
chỉ
hơn
35,2
triệu
đồng/lượng
vào
cuối
tháng
1,
chênh
lệch
thực
tế
trong
cả
năm
là
14,
2
triệu
đồng/lượng,
tương
đương
41%.
Năm
2011
cũng
là
lần
đầu
tiên
trong
10
năm
gần
đây,
giá
vàng
quốc
tế
giảm
sâu
trong
thời
gian
từ
đầu
tháng
11
đến
cuối
tháng
12,
với
độ
giảm
lên
tới
gần
170
USD/Oz.
Tương
tự,
giá
vàng
SJC
tại
Việt
Nam
lên
đỉnh
khoảng
gần
47
triệu
đồng/lượng
và
xuống
đáy
khoảng
43,8
triệu
đồng/lượng,
nghĩa
là
giảm
gần
4
triệu
đồng/lượng,
trong
cùng
khoảng
thời
gian.
Mấy
năm
qua,
hết
sàn
vàng
bị
đóng
cửa
rồi
tới
vàng
miếng
“phi
SJC”
đang
có
chủ
trương
bị
xóa.
Ông
có
cho
rằng,
“cửa”
làm
ăn
cho
giới
kinh
doanh
vàng
đang
hẹp
dần?
Đối
với
công
ty
của
ông,
những
chính
sách
này
đã
có
ảnh
hưởng
như
thế
nào?
Đúng
là
từ
khi
vàng
được
tự
do
lưu
thông
vào
những
năm
cuối
thập
kỷ
1980
trở
lại
đây
thì
đây
là
thời
kỳ
mà
chính
sách
quản
lý
về
vàng
được
bàn
bạc
và
thay
đổi
đáng
kể.
Những
chính
sách
vĩ
mô
về
vàng
có
lúc
tưởng
chừng
như
nghịch
nhau.
Đây
cũng
là
điều
khiến
giới
kinh
doanh
vàng
rất
“đau
đầu”.
Đánh
giá
về
biến
động
của
giá
vàng
thế
giới
đã
là
khó
rồi,
tại
Việt
Nam
doanh
nghiệp
kinh
doanh
vàng
còn
phải
tính
đến
“rủi
ro
chính
sách”,
mà
rủi
ro
này
tiềm
ẩn
những
nguy
cơ
rất
nguy
hiểm
từ
sự
thả
lỏng
hay
bóp
chặt
về
chính
sách
cho
đến
lợi
ích
nhóm…
đều
có
thể
ảnh
hưởng
tức
thì
đến
giá
vàng
trong
nước
bất
kể
giá
thế
giới
có
thay
đổi
hay
không.
Công
ty
VGB
không
nằm
ngoài
quy
luật,
mặc
dù
cổ
đông
của
VGB
là
những
doanh
nghiệp
vàng
chuyên
nghiệp
tại
Hà
Nội
và
Sài
Gòn
như
Vàng
Kim
Linh,
SJC
Hà
Nội,
Doji,
cho
đến
Vàng
Ngọc
Anh
(Bàn
cờ)…
Dự
thảo
nghị
định
mới
về
quản
lý
kinh
doanh
vàng
mà
Ngân
hàng
Nhà
nước
đưa
ra,
trong
đó
quy
định
chỉ
có
1
thương
hiệu
vàng
miếng
quốc
gia,
hiện
vẫn
đang
ở
trạng
thái
"treo".
Theo
ông,
mặt
tích
cực
và
hạn
chế
nếu
có
của
nghị
định
này,
sau
khi
đã
được
ban
hành
có
thể
sẽ
như
thế
nào?
Mặt
tích
cực
là
giờ
đây
Ngân
hàng
Nhà
nước
thừa
nhận
vai
trò
vàng
tiền
tệ
và
chính
thức
dùng
vàng
để
can
thiệp
vào
thị
trường
tiền
tệ.
Điều
này
sẽ
giúp
ích
tương
đối
trong
việc
ổn
định
chính
sách
tiền
tệ
mà
cụ
thể
là
tỷ
giá
VND/USD.
Mặt
tích
cực
thứ
hai
là
lợi
nhuận
từ
chính
sách
từ
nay
nếu
được
thực
thi
đúng
sẽ
mang
lợi
ích
tập
trung
cho
ngân
sách
quốc
gia
nhiều
hơn.
Mặt
hạn
chế
của
nó
là
sự
thay
đổi
về
cách
nhìn
nhận
và
thiệt
hại
của
nhiều
người
đang
nắm
giữ
những
thương
hiệu
vàng
“phi
SJC”
vốn
được
Ngân
hàng
Nhà
nước
cho
phép
sản
xuất
từ
nhiều
năm
trước.
Mặc
dù
hàm
lượng
và
khối
lượng
là
như
nhau
nhưng
có
lúc
vàng
“phi
SJC”
có
giá
thấp
hơn
cả
triệu
đồng/lượng
so
với
vàng
SJC.
Điều
này
là
quá
bất
hợp
lý
và
đưa
người
nắm
giữ
loại
những
loại
vàng
này
vào
thế
bị
lợi
dụng.
Trong
trường
hợp
giá
vàng
SJC
cao
hơn
giá
vàng
quốc
tế
quy
đổi
2
triệu
đồng/lượng,
giá
vàng
“phi
SJC”
nếu
thấp
hơn
vàng
SJC
1
triệu
đồng/lượng
thì
vẫn
cao
hơn
thế
giới
quy
đổi
1
triệu
đồng/lượng.
Vàng
“phi
SJC”
vẫn
nhận
được
lực
cầu
tốt
từ
những
đối
tượng
người
dân
và
các
công
ty
sản
xuất
nữ
trang
không
có
nhu
cầu
phải
mua
vàng
SJC.
Trong
khi
đó,
người
giữ
vàng
“phi
SJC”
chịu
thiệt
lớn
khi
bán
đi
tài
sản
này.
Theo
tôi
được
biết,
người
dân
ở
khu
vực
miền
Tây
Nam
Bộ,
nơi
được
xem
là
có
nhiều
nguồn
vàng
"biên
mậu",
người
dân
không
mấy
mặn
mà
với
vàng
SJC,
vì
họ
có
thể
mua
được
vàng
"biên
mậu"
nhiều
lúc
có
giá
rẻ
hơn,
mà
chất
lượng
không
có
gì
khác.
Ngân
hàng
Nhà
nước
đang
xây
dựng
đề
án
huy
động
vàng
trong
dân.
Theo
ông,
liệu
ý
tưởng
này
có
khả
thi
không?
Tôi
cho
rằng,
đây
là
một
ý
tưởng
khả
thi
vì
lượng
vàng
trong
dân
hiện
còn
rất
lớn,
theo
đánh
giá
khoảng
vài
trăm
tấn,
tương
đương
hơn
hàng
chục
tỷ
USD.
Quan
trọng
hơn,
người
dân
vẫn
tin
vào
Nhà
nước
hơn,
đặc
biệt
là
đối
với
những
tài
sản
có
giá
trị
cao
như
vàng.
Người
dân
và
doanh
nghiệp
nhỏ
thiệt
thòi?
Trở
lại
với
bất
cập
nêu
trên,
giá
vàng
trong
nước
đang
cao
hơn
thế
giới
hàng
triệu
đồng
mỗi
lượng,
theo
ông
ai
là
người
hưởng
lợi
và
đâu
là
người
chịu
thiệt
từ
sự
chênh
lệch
này?
Để
giải
quyết
triệt
để
sự
chênh
lệch
này,
theo
ông
cần
có
giải
pháp
gì?
Vấn
đề
này
các
báo
đài
đã
phân
tích
và
đưa
tin
nhiều.
Chênh
lệch
này
chỉ
xuất
hiện
trong
năm
2011
là
do
giá
thế
giới
biến
động
với
biên
độ
quá
lớn,
nhưng
tại
Việt
Nam
sự
chênh
lệch
này
ngoài
nguyên
nhân
là
giá
thế
giới
còn
là
sự
“biến
động
về
chính
sách”
như
đã
nói
ở
trên.
Biến
động
chính
sách
khiến
các
doanh
nghiệp
nhiều
lúc
rơi
vào
thế
“trở
tay
không
kịp”,
khó
điều
tiết
được
cung
cầu
nên
họ
buộc
phải
giữ
chênh
lệch
cao
so
với
giá
vàng
quốc
tế
và
cả
giữa
giá
mua
và
bán
vàng
để
giữ
an
toàn.
Người
thiệt
thòi
trước
tiên
là
những
người
dân
thiếu
thông
tin,
dễ
bị
kích
động,
sau
đến
là
một
số
doanh
nghiệp
vàng
nhỏ
vừa
thiếu
thông
tin
và
hệ
thống
phòng
vệ
không
an
toàn
và
hiệu
quả.
Người
được
hưởng
lợi
nhiều
nhất
là
một
số
doanh
nghiệp
vàng
lớn,
có
đầy
đủ
thông
tin
cũng
như
hệ
thống
phòng
vệ
hiệu
quả.
Theo
quan
điểm
của
tôi,
đầu
tư
vàng
là
một
nhu
cầu
có
thật
và
hợp
lý
của
người
dân.
Không
phải
ai
cũng
chơi
được
bất
động
sản
hay
chứng
khoán,
vì
bất
động
sản
thì
cần
nhiều
vốn,
mà
chứng
khoán
thì
còn
xa
lạ
với
nhiều
người
Việt
Nam,
nên
vàng
vẫn
là
một
kênh
đầu
tư
quan
trọng.
Để
tránh
“vàng
hóa”
nền
kinh
tế
mà
vẫn
đáp
ứng
được
nhu
cầu
đầu
tư
vàng
của
người
dân,
một
giải
pháp
là
mở
một
sàn
vàng
quốc
gia.
Để
đảm
bảo
an
toàn,
Ngân
hàng
Nhà
nước
có
thể
ủy
quyền
cho
một
số
đơn
vị
làm
công
tác
hedging
(phòng
vệ),
và
tăng
tỷ
lệ
ký
quỹ
cho
các
giao
dịch
vàng.
Cách
làm
này
một
mặt
tiết
kiệm
được
ngoại
tệ
để
nhập
vàng,
một
loại
tài
sản
không
tạo
ra
giá
trị
gia
tăng,
đồng
thời
thu
hút
được
một
lượng
tiền
lớn
vào
hệ
thống
tài
chính
quốc
gia,
mà
lại
dẹp
được
các
sàn
vàng
“chui”
đang
tồn
tại
hiện
nay.
Sàn
vàng
là
một
sàn
giao
dịch
hàng
hóa,
giúp
nâng
cao
mức
độ
phát
triển
của
thị
trường
tài
chính
Việt
Nam
nói
chung,
tạo
điều
kiện
cho
thu
hút
vốn
nước
ngoài
tương
tự
như
vốn
vào
thị
trường
chứng
khoán.
Ở
nước
ngoài,
vàng
vật
chất
không
được
bán
tràn
lan
như
ở
Việt
Nam
mà
chủ
yếu
bán
vàng
nữ
trang
với
hàm
lượng
vàng
thấp.
Ở
Việt
Nam,
vàng
tiền
tệ
là
chính,
nữ
trang
chỉ
là
phụ.
Nếu
có
sàn
giao
dịch
vàng,
xã
hội
có
thể
hạn
chế
được
tình
trạng
mất
an
ninh,
chẳng
hạn
như
những
vụ
cướp
tiệm
vàng
xẩy
ra
khá
nhiều
thời
gian
gần
đây...
Còn
năm
2012,
ông
có
thể
cho
biết
dự
báo
của
mình?
Giá
vàng
trong
năm
2012
sẽ
còn
nhiều
biến
động
theo
hai
hướng,
một
là
tăng
lên
đến
trên
2.000
USD/oz
theo
dự
báo
của
nhiều
tổ
chức
quốc
tế
từ
giữa
năm
2011
và
một
là
điều
chỉnh
giảm
ngắn
hạn
do
tác
động
của
khủng
khoảng
đồng
Euro
như
đã
chứng
kiến
trong
tháng
12
vừa
qua.
Biên
độ
dao
động
và
độ
lệch
chuẩn
có
khả
năng
tương
tự
như
2011.
Năm
nay,
khủng
hoảng
của
châu
Âu
và
số
phận
của
Euro
sẽ
là
nhân
tố
quan
trọng
nhất
tác
động
tới
giá
vàng.
Năm
nay
là
năm
bầu
cử
ở
Mỹ,
nên
nước
này
chắc
sẽ
không
có
chính
sách
phiêu
lưu,
nhưng
đây
là
một
năm
thử
thách
đối
với
đồng
Euro.
Với
tư
cách
là
một
nhà
kinh
doanh
vàng,
ông
có
mong
muốn
gì
trong
năm
2012?
Kinh
doanh
vàng
trên
thế
giới
và
tại
Việt
Nam
trong
nhiều
năm
qua
là
ngành
kinh
doanh
của
niềm
tin
và
rủi
ro
cao.
Tại
Việt
Nam
thì
doanh
nghiệp
còn
chịu
rủi
ro
cao
hơn
so
với
giới
kinh
doanh
vàng
quốc
tế
như
tôi
đã
có
nói
ở
trên.
Nhưng
cũng
phải
nói
thêm
rằng,
về
nguyên
tắc,
rủi
ro
cao
luôn
đi
kèm
với
lợi
nhuận
cao.
Đối
tác
của
tôi
ở
Singapore
có
nói
kinh
doanh
vàng
ở
Việt
Nam
“khỏe
quá”,
vì
có
lúc
giá
vàng
ở
Việt
Nam
cao
hơn
thế
giới
3
-
4
triệu
đồng/lượng.
Có
một
thức
tế
là
hơn
nhiều
thập
kỷ
qua
và
hiện
nay,
Việt
Nam
là
một
trong
những
nước
có
mức
lạm
phát
cao
nhất
khu
vực
và
thế
giới.
Do
đó
người
dân,
doanh
nghiệp
và
các
nhà
đầu
tư
tìm
đến
vàng
là
điều
dễ
hiểu.
Ngay
tại
Mỹ,
khi
đồng
USD
vẫn
đang
thống
trị
cả
thế
giới
thì
người
dân
Mỹ,
các
quỹ
hưu
trí
cũng
không
đặt
cược
hết
vào
việc
gửi
tiết
kiệm
tại
các
ngân
hàng
Mỹ
đâu.
Đây
là
một
thực
tế
mà
những
người
làm
chính
sách
tiền
tệ
cần
lưu
ý.
Cái
gì
đi
ngược
lại
quy
luật
tất
yếu
sẽ
sinh
ra
nhiều
biến
tướng
mà
“chi
phí
xã
hội”
để
giải
quyết
những
biến
tướng
đó
làm
thiệt
hại
hại
nhiều
hơn
nguồn
lực
của
xã
hội
mà
những
‘kết
qua
nhất
thời’
được
cho
rằng
là
thành
công
.