Năm
2011,
Tập
đoàn
Điện
lực
Việt
Nam
(EVN)
lỗ
3.500
tỷ
đồng,
thay
vì
ước
lỗ
11.000
tỷ
đồng
như
dự
kiến
ban
đầu.
Theo
Quyết
định
0152/QĐ-BCT
phê
duyệt
kế
hoạch
cung
cấp
điện
và
vận
hành
hệ
thống
điện
năm
2011,
phần
đóng
góp
của
nguồn
thủy
điện
được
tính
toán
là
37,35
tỷ
KWh,
nhiệt
điện
than
24,72
tỷ
kWh,
nhiệt
điện
khí
44,19
tỷ
kWh,
nhiệt
điện
dầu
cả
năm
là
4,73
tỷ
kWh
và
điện
nhập
khẩu
4,57
tỷ
kWh.
Tuy
nhiên,
thực
tế
các
nguồn
điện
được
huy
động
trong
năm
2011
có
rất
nhiều
thay
đổi
so
với
mức
được
đưa
ra
tại
Quyết
định
0152/QĐ-BCT.
Cụ
thể,
nguồn
thủy
điện
đóng
góp
41,42
tỷ
kWh,
nhiệt
điện
than
đóng
góp
18,8
tỷ
kWh,
nhiệt
điện
khí
huy
động
39,12
tỷ
kWh,
tuabin
khí
chạy
dầu
phát
1,86
tỷ
kWh
và
điện
nhập
khẩu
là
4,991
tỷ
kWh.
Như
vậy,
chỉ
tính
riêng
nguồn
thủy
điện,
thực
tế
huy
động
của
EVN
đã
vượt
so
với
kế
hoạch
là
4,07
tỷ
kWh
điện.
Trong
khi
đó,
nguồn
nhiệt
điện
than
giảm
5,9
tỷ
kWh,
còn
nhiệt
điện
khí
cũng
giảm
khoảng
5
tỷ
kWh.
Đáng
nói
là,
nguồn
nhiệt
điện
chạy
dầu
được
huy
động
trên
thực
tế
giảm
2,87
tỷ
kWh
so
với
kế
hoạch
đặt
ra.
Việc
thay
đổi
đáng
kể
cơ
cấu
nguồn
điện
huy
động
này
được
các
chuyên
gia
am
hiểu
cho
rằng,
đã
tác
động
sâu
sắc
tới
chi
phí
hoạt
động
của
ngành
điện
trong
năm
2011.
Cụ
thể
là
số
lỗ
theo
công
bố
của
EVN
chỉ
còn
3.500
tỷ
đồng,
thay
vì
ước
tính
lên
tới
11.000
tỷ
đồng
so
với
kế
hoạch
khi
tính
toán
phương
án
nguồn
điện
của
năm
2011.
Trên
thực
tế,
nguồn
thủy
điện
có
giá
thành
thấp
nhất
luôn
được
ưu
tiên
huy
động
đầu
tiên
để
giảm
gánh
nặng
chi
phí,
nhất
là
trong
điều
kiện
giá
bán
điện
bình
quân
hiện
nay
vẫn
còn
thấp
so
với
khu
vực
và
so
với
giá
thành
sản
xuất
điện
bình
quân.
Trước
đó,
tại
báo
cáo
Kiểm
toán
hoạt
động
năm
2010
của
EVN
được
thực
hiện
bởi
Kiểm
toán
Nhà
nước,
việc
sản
lượng
thủy
điện
–
có
giá
rẻ
hơn
các
nguồn
điện
khác,
được
huy
động
thực
tế
thấp
tới
6,5
tỷ
kWh
phương
án
giá
điện
đã
được
phê
duyệt
là
một
trong
những
tác
nhân
chính
khiến
giá
thành
sản
xuất
điện
thực
tế
tăng
rất
lớn
so
với
các
thông
số
tính
toán
trong
phương
án
giá
bán
điện
tại
Thông
tư
số
08/2010/TT-BCT
ngày
24/2/2010
của
Bộ
Công
thương.
Vẫn
theo
báo
cáo
kiểm
toán,
năm
2010,
nếu
tính
đúng
và
đầy
đủ
các
yếu
tố
đầu
vào
theo
giá
thị
trường
(than,
khí),
giá
thành
điện
của
EVN
sẽ
là
1.320,2
đồng/kWh.
Con
số
này
cũng
cao
hơn
rất
nhiều
so
với
mức
1.077
đồng/kWh
là
giá
bán
điện
bình
quân
được
cơ
quan
hữu
trách
phê
duyệt
cho
EVN.
Cũng
chỉ
tính
riêng
năm
2010,
hoạt
động
sản
xuất,
kinh
doanh
điện
của
EVN
lỗ
10.541
tỷ
đồng,
được
xác
định
nguyên
nhân
chính
là
do
các
nhà
máy
thủy
điện
thiếu
nước,
nên
EVN
phải
huy
động
các
nhà
máy
chạy
dầu
và
mua
điện
ngoài
với
giá
cao
gấp
3-4
lần
giá
bán
bình
quân,
làm
chi
phí
tăng
rất
lớn
so
với
kế
hoạch
chi
phí
xây
dựng
trong
phương
án
giá
điện
được
duyệt.
Chỉ
ở
Công
ty
TNHH
MTV
Nhiệt
điện
Cần
Thơ
và
Công
ty
TNHH
MTV Nhiệt
điện
Thủ
Đức,
giá
thành
nhiệt
điện
chạy
dầu
bình
quân
là
3.830
đồng/kWh,
cao
hơn
3,5
lần
so
với
giá
bán
điện
bình
quân.
Trong
số
liệu
năm
2010,
giá
thành
bình
quân
của
các
nhà
máy
thủy
điện
xấp
xỉ
500
đồng/kWh,
thậm
chí
có
những
nhà
máy
thủy
điện
chưa
tới
200
đồng/kWh,
thấp
hơn
tới
cả
chục
lần
so
với
giá
mua
điện
từ
các
nguồn
điện
chạy
dầu.
Vì
vậy,
chuyện
huy
động
tối
đa
nguồn
thủy
điện
nhằm
bù
đắp
chi
phí
mua
điện
giá
cao
từ
bên
ngoài
hay
các
nguồn
điện
chạy
dầu
là
điều
dễ
hiểu.
Cũng
bởi
tính
kinh
tế
của
thủy
điện
này,
mà
việc
đẩy
nhanh
tiến
độ
các
dự
án
thủy
điện
được
những
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
lẫn
EVN
đặc
biệt
quan
tâm.
Năm
2011,
đã
có
hàng
loạt
dự
án
thủy
điện
đi
vào
hoạt
động,
mà
đáng
kể
là
3
tổ
máy
với
tổng
công
suất
1.200
MW
của
riêng
Nhà
máy
Thủy
điện
Sơn
La,
đóng
góp
khoảng
5
tỷ
kWh
điện
cho
hệ
thống.
Còn
trong
năm
2012,
kế
hoạch
huy
động
từ
nguồn
thủy
điện
được
đặt
ra
ở
mức
45,029
tỷ
kWh,
tăng
thêm
gần
4
tỷ
so
với
năm
2011,
chắc
chắn
sẽ
còn
đỡ
bớt
gánh
nặng
kinh
tế
cho
ngành
điện.