Là
thành
viên
WTO,
Việt
Nam
tham
gia
đầy
đủ
các
định
chế
kinh
tế
toàn
cầu
và
hẳn
nhiên
sẽ
chịu
tác
động
trực
tiếp,
tức
thì
từ
mọi
biến
động
của
kinh
tế
thế
giới.
Việc
tham
gia
đầy
đủ
các
định
chế
kinh
tế
toàn
cầu,
một
mặt
sẽ
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
để
Việt
Nam
thúc
đẩy
hoạt
động
kinh
tế,
song
mặt
khác,
nền
kinh
tế
sẽ
phải
thường
xuyên
chịu
áp
lực
từ
chu
chuyển
hàng
hóa,
tín
dụng,
vốn
đầu
tư
quốc
tế
gắn
với
tình
trạng
bất
ổn
về
giá
cả
hàng
hóa,
dịch
vụ,
khủng
hoảng
kinh
tế
khu
vực
và
thế
giới.
Năm
đầu
tiên
Việt
Nam
gia
nhập
WTO,
tình
hình
kinh
tế
quốc
tế
và
trong
nước
tương
đối
ổn
định,
do
vậy,
các
chỉ
số
kinh
tế
của
Việt
Nam
khá
tích
cực:
GDP
tăng
8,46%,
CPI
tăng
8,3%.
Năm
2008,
đã
diễn
ra
hai
trạng
thái
trái
ngược
khi
trong
3
quý
đầu
năm,
tình
trạng
lạm
phát
cao,
nhưng
những
tháng
cuối
năm
lại
giảm
phát
do
suy
thoái
kinh
tế
thế
giới.
Năm
2009
và
2010,
bất
ổn
kinh
tế
toàn
cầu
tiếp
tục
làm
giảm
tốc
độ
tăng
trưởng
kinh
tế
(năm
2009,
GDP
tăng
5,32%,
CPI
tăng
6,88%,
trong
khi
năm
2010,
con
số
tương
ứng
là
5,83%
và
9,54%.
Năm
2011,
GDP
tăng
5,89%,
CPI
tăng
trên
18%).
Phải
chăng
vì
hội
nhập
sâu
rộng
hơn
với
thế
giới,
nên
kinh
tế
Việt
Nam
chịu
tác
động
tiêu
cực
từ
cuộc
khủng
hoảng
kinh
tế
toàn
cầu?
Hay
vì
nước
ta
chưa
có
được
những
dự
báo
tin
cậy
về
sự
biến
động
trên
thị
trường
hàng
hóa
và
tiền
tệ
thế
giới,
không
chủ
động
đề
ra
cơ
chế
phòng
tránh,
đối
phó
rủi
ro,
chưa
tận
dụng
hết
cơ
hội
khi
đã
là
thành
viên
WTO?
Câu
trả
lời
nằm
ở
vế
thứ
hai.
Một
khi
đã
chấp
nhận
luật
chơi
toàn
cầu
thì
vấn
đề
đặt
ra
là
làm
thế
nào
để
mỗi
quốc
gia
vừa
phát
huy
được
lợi
thế
so
sánh
động,
vừa
chủ
động
đối
phó
rủi
ro
để
bảo
vệ
lợi
ích
dân
tộc
trong
một
thế
giới
vừa
hợp
tác,
vừa
cạnh
tranh.
Yếu
tố
quyết
định
trong
cuộc
chơi
toàn
cầu
là
năng
lực
cạnh
tranh
ở
ba
cấp
độ:
quốc
gia,
doanh
nghiệp
và
sản
phẩm.
Những
thành
quả
nổi
bật
của
thương
mại
quốc
tế
trước
hết
là
chất
lượng,
kiểu
dáng,
giá
cả
hàng
hóa
Việt
Nam
đã
có
sức
cạnh
tranh
trên
các
thị
trường
chính
là
Mỹ,
Liên
minh
châu
Âu
(EU)
và
Nhật
Bản.
Việc
thu
hút
hàng
năm
trên
10
tỷ
USD
vốn
FDI
thực
hiện
chủ
yếu
nhờ
môi
trường
đầu
tư
tại
Việt
Nam
được
cải
thiện,
hấp
dẫn
hơn
với
những
nhà
đầu
tư
lớn
đầy
tiềm
năng.
Tuy
vậy,
tiến
bộ
là
chưa
đủ
khi
thị
trường
thế
giới
đang
trong
giai
đoạn
biến
động
khó
lường,
khi
các
quốc
gia
và
doanh
nghiệp
hàng
đầu
thế
giới
thường
xuyên
thay
đổi
theo
xu
thế
tiếp
cận
mô
hình
tối
ưu,
khi
một
số
nước
như
Trung
Quốc,
Ấn
Độ
tận
dụng
cơ
hội
từ
suy
thoái
kinh
tế
của
các
nước
công
nghiệp
phát
triển
để
vươn
lên
thành
những
nền
kinh
tế
hàng
đầu
thế
giới.
Trong
khi
đó,
qua
5
năm
là
thành
viên
WTO,
việc
cải
cách
thể
chế
của
Việt
Nam
theo
hướng
tự
do
hóa
thương
mại
và
đầu
tư
vẫn
chưa
khắc
phục
được
nhược
điểm
thiếu
tính
hệ
thống,
thiếu
minh
bạch
và
thiếu
ổn
định.
Năng
lực
cạnh
tranh
hàng
hóa,
dịch
vụ
của
doanh
nghiệp
và
của
quốc
gia
chưa
đáp
ứng
được
yêu
cầu
của
giai
đoạn
mới.
Nguồn
nhân
lực
chất
lượng
cao
còn
hạn
chế
là
trở
ngại
lớn
trong
việc
tiếp
nhận
các
dự
án
FDI
công
nghệ
cao,
hiện
tượng
thiếu
chuyên
gia
giỏi,
nhà
quản
lý
có
năng
lực
đã
trở
thành
phổ
biến...
Là
nước
công
nghiệp
hóa
sau,
Việt
Nam
vừa
phải
khắc
phục
nhược
điểm
của
tập
quán
kinh
doanh,
quản
lý
theo
cơ
chế
cũ,
vừa
phải
tiến
cùng
thời
đại,
nên
nhiệm
vụ
trở
nên
nặng
nề,
phức
tạp
hơn,
đòi
hỏi
phải
đổi
mới
toàn
diện
thể
chế
kinh
tế
thị
trường,
cấu
trúc
bộ
máy
và
cơ
chế
quản
lý
nhà
nước,
quản
trị
doanh
nghiệp,
thiết
lập
mối
liên
hệ
có
hiệu
quả
giữa
Nhà
nước
với
thị
trường,
khai
thác
và
sử
dụng
tốt
hơn
mọi
nguồn
lực.
Dưới
đây
là
một
số
dẫn
chứng
về
năng
lực
cạnh
tranh
cấp
quốc
gia
và
cấp
tỉnh,
thành
phố
từ
hai
công
trình
nghiên
cứu.
Về
môi
trường
kinh
doanh
của
Việt
Nam,
báo
cáo
tại
Diễn
đàn
Doanh
nghiệp
Việt
Nam
tháng
12/2011
cho
thấy,
trong
số
240
doanh
nghiệp
tham
gia
điều
tra
(80%
doanh
nghiệp
trong
nước,
20%
doanh
nghiệp
FDI)
có
35%
doanh
nghiệp
đánh
giá
sự
chuyển
biến
tích
cực
trên
nhiều
lĩnh
vực,
trong
đó
có
61%
về
cải
thiện
thủ
tục
hành
chính;
17,09%
về
tiếp
cận
đất
đai;
20,94%
về
thủ
tục
thuế.
Tuy
vậy,
theo
thang
điểm
4
là
tốt
nhất,
môi
trường
kinh
doanh
năm
2011
của
Việt
nam
đạt
mức
trung
bình
2,01
điểm,
thấp
hơn
2,52
điểm
năm
2010.
Trong
14
lĩnh
vực
cụ
thể
về
môi
trường
kinh
doanh,
không
có
lĩnh
vực
nào
đạt
được
điểm
3.
Tiếp
cận
thông
tin,
luật
pháp
nhà
nước
đạt
2,7
điểm,
hệ
thống
thuế
và
quản
lý
thuế
đạt
2,41
điểm,
chi
phí
kinh
doanh
đạt
2,42
điểm,
xây
dựng
đạt
2,23
điểm
(giảm
so
với
2,55
điểm
năm
2010
và
2,64
điểm
năm
2009).
Quản
lý
kinh
tế
vĩ
mô
bao
gồm
chống
lạm
phát,
điều
hành
lãi
suất,
tỷ
giá
được
xếp
vào
ba
nhóm
mà
doanh
nghiệp
lo
ngại
nhất
trong
năm
2011.
Doanh
nghiệp
FDI
đánh
giá
hai
lĩnh
vực
xếp
loại
kém
là
quản
lý
kinh
tế
vĩ
mô
(đạt
1,9
điểm
và
tiếp
cận
ngoại
tệ
đạt
1,93
điểm).
Cũng
như
những
năm
trước,
doanh
nghiệp
FDI
đánh
giá
môi
trường
kinh
doanh
bi
quan
hơn
doanh
nghiệp
trong
nước.
Điều
đó
cũng
dễ
hiểu
vì
họ
thường
so
sánh
với
các
nước
trong
khu
vực
như
Trung
Quốc,
Indonesia,
Thái
Lan...
Về
năng
lực
cạnh
tranh
cấp
tỉnh,
thành
phố
(PCI),
năm
2010,
Phòng
Thương
mại
và
Công
nghiệp
Việt
Nam
(VCCI)
phối
hợp
với
Dự
án
Sáng
kiến
cạnh
tranh
Việt
Nam
của
Cơ
quan
Phát
triển
quốc
gia
Hoa
Kỳ
(USAID)
đã
điều
tra
7.300
doanh
nghiệp
đối
với
9
chỉ
số
PCI.
Một
kết
luận
đáng
quan
tâm
là
chất
lượng
điều
hành
kinh
tế
của
cấp
tỉnh
dường
như
ít
được
cải
thiện
khi
chỉ
có
3
địa
phương
là
Đà
Nẵng
(69,77
điểm),
Lào
Cai
(67,95
điểm)
và
Đồng
Tháp
(67,22
điểm)
được
xếp
hạng
rất
tốt,
giảm
3
địa
phương
so
với
2009.
Có
9
địa
phương
được
xếp
hạng
tốt
(2009
là
10),
5
tương
đối
thấp
(2009
là
4).
Mặc
dù
tư
liệu
điều
tra
chọn
mẫu
chỉ
có
giá
trị
tham
khảo,
nhưng
cũng
phản
ánh
khá
rõ
nét
năng
lực
cạnh
tranh
quốc
gia
và
địa
phương
của
nước
ta.
Thực
trạng
đó
đang
đòi
hỏi
phải
có
một
hệ
thống
giải
pháp
hữu
hiệu
để
cải
thiện
trong
những
năm
sắp
tới.
Năng
lực
cạnh
tranh
hàng
hóa
và
doanh
nghiệp
Việt
Nam
tuy
đã
được
nâng
cao,
nhưng
về
trung
và
dài
hạn
đang
đòi
hỏi
hình
thành
chiến
lược
sản
phẩm
của
từng
loại
hàng
hóa
thích
ứng
với
thị
trường,
công
nghệ
để
mỗi
năm
tăng
thêm
số
thương
hiệu
Việt
Nam
có
tín
nhiệm
trên
thế
giới.
Muốn
làm
được
điều
đó,
trước
hết
cần
đầu
tư
nhiều
hơn
vào
nghiên
cứu
&
phát
triển
để
tạo
được
những
mặt
hàng
có
kim
ngạch
xuất
khẩu
chiếm
được
thị
phần
ngày
càng
tăng
hoặc
tham
gia
có
hiệu
quả
vào
chuỗi
giá
trị
toàn
cầu.
ra,
cần
coi
trọng
hơn
công
tác
tiếp
thị,
quảng
bá
sản
phẩm,
thương
hiệu,
hình
ảnh
của
doanh
nghiệp,
đất
nước,
con
người
Việt
Nam
ở
nước
ngoài
nhất
là
ở
Mỹ,
EU
và
Nhật
Bản.
Các
hiệp
hội
ngành
nghề
cần
đảm
nhận
và
được
Nhà
nước
tạo
điều
kiện
về
chính
sách,
cơ
chế,
quyền
hạn
trong
việc
tổ
chức
hợp
tác,
phân
công
doanh
nghiệp
từng
ngành
hàng
để
tránh
và
chấm
dứt
tình
trạng
cạnh
tranh
nội
bộ
trong
mua,
bán
hàng,
đồng
thời
phối
hợp
hành
động
trên
từng
thị
trường
với
từng
đối
tác.
Việc
giao
nhiệm
vụ
cho
đại
diện
ngoại
giao
ở
nước
ngoài
chỉ
đạo
phối
hợp
hoạt
động
ngoại
giao
-
kinh
tế
sẽ
tăng
hợp
lực
giữa
các
tổ
chức
và
doanh
nghiệp
Việt
Nam
ở
từng
quốc
gia.
Việc
tiếp
tục
thực
hiện
lộ
trình
mở
cửa
thị
trường
theo
cam
kết
WTO
cần
được
đặt
trong
bối
cảnh
Việt
Nam
cùng
các
nước
ASEAN
đẩy
nhanh
việc
hợp
tác
trong
khung
khổ
Khu
vực
Mậu
dịch
tự
do
ASEAN
(AFTA),
tiến
tới
thị
trường
thống
nhất
của
10
quốc
gia
theo
hướng
Cộng
đồng
Kinh
tế
ASEAN,
Khu
vực
Mậu
dịch
tự
do
ASEAN-
Trung
Quốc,
ASEAN
-
Nhật
Bản…,
cũng
như
các
hiệp
định
song
phương
giữa
Việt
Nam
với
một
số
nước
theo
hướng
tự
do
hoá
thương
mại.
Giai
đoạn
2011-
2015,
các
quan
hệ
đa
phương
và
song
phương
giữa
Việt
Nam
với
các
tổ
chức
quốc
tế
và
các
quốc
gia
đan
xen
nhau,
đa
dạng,
phức
tạp
hơn,
đòi
hỏi
phải
thống
nhất
nhận
thức,
hành
động
trên
cơ
sở
tư
duy
phù
hợp
với
xu
thế
toàn
cầu
hóa
để
đưa
đất
nước
tiến
cùng
thời
đại,
nâng
cao
hơn
nữa
vị
thế
của
Việt
Nam
trong
ASEAN,
ở
châu
Á
cũng
như
trên
thế
giới.
Do
đó,
trên
cơ
sở
tổng
kết
việc
thực
hiện
Chương
trình
Hành
động
của
Chính
phủ
ngày
27/2/2007,
cần
xây
dựng
Chương
trình
Hành
động
của
Chính
phủ
về
Hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế
giai
đoạn
2012-
2015
để
hướng
dẫn
các
ngành,
các
cấp
thống
nhất
hành
động,
nhằm
chủ
động
trong
việc
tham
gia
các
FTA
song
phương
và
đa
phương,
từ
đó
nâng
cao
hơn
nữa
hiệu
quả
hoạt
động
thương
mại,
đầu
tư
quốc
tế.