Những
núi
than
bị
san
phẳng,
những
kỷ
lục
về
độ
sâu
khai
thác
liên
tục
bị
phá
vỡ,
cho
thấy
nguồn
than
đang
ngày
càng
cạn
kiệt.
Nhưng
bất
chấp
những
điều
này,
than
vẫn
bị
xuất
đi.
Chỉ
tay
vào
khai
trường
đồi
436
của
Công
ty
CP
than
Cao
Sơn
(thuộc
Tập
đoàn
công
nghiệp
than
khoáng
sản
VN
-
Vinacomin),
anh
Nguyễn
Khánh
Hoàn,
Phó
chánh
văn
phòng
công
ty,
cho
biết
đồi
than
lộ
thiên
này
khai
thác
từ
những
năm
80
của
thế
kỷ
trước.
Dù
cao
tới
436m,
nhưng
đồi
than
này
đang
bị
“lùn”
dần,
hiện
tại
chỉ
còn
dưới
300m.
“Với
tốc
độ
này,
10
năm
nữa
sẽ
không
còn
đồi
436
nữa”,
anh
Hoàn
cho
hay.
Phá
vỡ
kỷ
lục
đào
sâu
Với
chủ
trương
giảm
khai
thác
lộ
thiên
nhằm
giảm
thiểu
tác
hại
tới
môi
trường,
cộng
thêm
việc
nguồn
than
lộ
thiên
đã
dần
cạn,
không
chỉ
các
công
ty
than
chuyên
khai
thác
hầm
lò,
mà
ngay
cả
với
các
công
ty
trước
đây
chỉ
khai
thác
lộ
thiên
cũng
đang
phải
triển
khai
các
dự
án
đào
sâu
hơn
nữa
vào
lòng
đất
để
tìm
than.
Đó
là
lý
do
giếng
đứng
Mông
Dương
ở
độ
sâu
-250m
từng
là
kỷ
lục
của
ngành
than
bị
phá
vỡ
bởi
hàng
loạt
dự
án
của
các
công
ty
than
khác,
dù
việc
tiếp
tục
tiến
sâu
vào
lòng
đất
không
hề
dễ
dàng.
"Sau
năm
2030,
bể
than
Quảng
Ninh
cũng
chỉ
tồn
tại
thêm
tối
đa
được
8
năm
nữa
trước
khi
đóng
cửa.
Các
mỏ
than
mới
ở
vùng
Đông
Bắc
có
thể
“thọ”
lâu
hơn
nhưng
cũng
chỉ
tới
năm
2055"
TS
Nguyễn
Thành
Sơn,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
năng
lượng
sông
Hồng
|
Anh
Bùi
Xuân
May,
Phó
giám
đốc
Công
ty
than
Khe
Chàm,
cho
biết
mỏ
Khe
Chàm
1
đang
khai
thác
ở
độ
sâu
-225m.
Mỏ
than
Khe
Chàm
3
đào
xuống
độ
sâu
-300m
được
triển
khai
từ
năm
2006
với
kế
hoạch
ra
lò
tấn
than
đầu
tiên
vào
năm
2010
đã
không
thực
hiện
được,
do
những
khó
khăn
về
địa
chất
ở
khu
vực
này.
Mỏ
Khe
Chàm
2
-
4
cũng
đang
được
đầu
tư,
với
hầm
lò
giếng
giai
đoạn
1
đã
đạt
tới
mức
-500m,
giai
đoạn
sau
sẽ
từ
tầng
lò
giếng
dưới
-500m
đến
đáy
tầng
than
-1.260m
(ở
một
số
cụm
vỉa).
Cọc
Sáu,
Đèo
Nai
-
những
khai
trường
lộ
thiên
cũng
đang
gấp
rút
đầu
tư
khai
thác
dưới
moong
sâu
do
than
lộ
thiên
đang
dần
cạn.
Than
Cọc
Sáu
năm
2010
đã
phải
hạ
moong
ở
mức
-90m
và
có
kế
hoạch
tiến
tới
xuống
mức
-375m
vào
năm
2015
khi
kết
thúc
đời
mỏ.
Mỏ
lộ
thiên
Cao
Sơn
cũng
sẽ
đầu
tư
khai
thác
ở
độ
sâu
-150m.
Đến
năm
2017,
Công
ty
than
Núi
Béo
cũng
phải
dừng
khai
thác
than
lộ
thiên
và
chuyển
sang
khai
thác
than
hầm
lò,
với
cặp
giếng
được
đào
từ
khai
trường
đang
khai
thác
hiện
nay
(độ
cao
từ
+35m)
xuống
-410m.
Theo
quy
hoạch
chung
phát
triển
ngành
than,
tới
năm
2015
Vinacomin
sẽ
phải
chấm
dứt
khai
thác
than
lộ
thiên
tại
khu
vực
Hòn
Gai
(Quảng
Ninh).
Từ
sau
năm
2015,
mục
tiêu
đặt
ra
là
vùng
than
Quảng
Ninh
phải
đáp
ứng
sản
lượng
65
-
80
triệu
tấn,
trong
đó
sản
lượng
khai
thác
hầm
lò
chiếm
tới
90
-
95%.
Tuy
nhiên,
dự
kiến
mỏ
Khe
Chàm
3
với
công
suất
2,5
triệu
tấn/năm
cũng
phải
tới
cuối
năm
2014,
đầu
năm
2015
mới
ra
than,
Khe
Chàm
2
và
4
công
suất
3,5
triệu
tấn
đến
năm
2017
mới
có
sản
phẩm.
Thiếu
vẫn
xuất
Theo
số
liệu
công
bố
giữa
năm
2011
của
Vinacomin,
năm
2015
tập
đoàn
này
có
thể
sản
xuất
được
55
-
60
triệu
tấn
than,
lượng
than
thiếu
cần
phải
nhập
khẩu
khoảng
6
triệu
tấn,
năm
2016
thiếu
25
triệu
tấn.
Năm
2020,
sản
xuất
trong
nước
dự
kiến
đạt
67
-
72
triệu
tấn
và
cần
phải
nhập
khẩu
để
bù
đắp
lên
tới
66
triệu
tấn.
Còn
theo
số
liệu
mới
nhất
tại
hội
nghị
triển
khai
nhiệm
vụ
năm
2012
của
Vinacomin,
con
số
phải
nhập
khẩu
từ
năm
2015
là
10
triệu
tấn.
TS
Nguyễn
Thành
Sơn,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
năng
lượng
sông
Hồng,
từng
cảnh
báo:
“Sau
năm
2030,
bể
than
Quảng
Ninh
cũng
chỉ
tồn
tại
thêm
tối
đa
được
8
năm
nữa
trước
khi
đóng
cửa.
Các
mỏ
than
mới
ở
vùng
Đông
Bắc
có
thể
“thọ”
lâu
hơn
nhưng
cũng
chỉ
tới
năm
2055.
Trong
khi
đó,
các
mỏ
than
mới
ở
đồng
bằng
sông
Hồng
dù
có
dự
báo
trữ
lượng
rất
lớn
nhưng
rất
khó
khai
thác”.
Thế
nhưng,
những
con
số
hàng
triệu,
thậm
chí
hàng
chục
triệu
tấn
phải
nhập
khẩu
trong
tương
lai
không
xa
và
những
khó
khăn
trong
khai
thác
do
trữ
lượng
dần
cạn
đang
tương
phản
một
cách
kỳ
lạ
với
sản
lượng
than
xuất
khẩu
của
Vinacomin
những
năm
qua
và
các
năm
sắp
tới.
Cụ
thể,
năm
2006,
Vinacomin
xuất
khẩu
21,5
triệu
tấn
trong
khi
tiêu
thụ
trong
nước
chỉ
là
16
triệu
tấn.
Năm
2007
chênh
lệch
xuất
khẩu
-
tiêu
thụ
trong
nước
vẫn
giữ
ở
mức
cao,
xuất
24,1
triệu
tấn
so
với
17,5
triệu
tấn
dùng
trong
nước.
Tỷ
lệ
chênh
lệch
đó
dù
có
giảm,
nhưng
năm
2011
than
xuất
khẩu
vẫn
lên
tới
16,9
triệu
tấn
so
với
than
dùng
trong
nước
khoảng
28
triệu
tấn.
Năm
2012,
con
số
dự
kiến
là
tiêu
thụ
trong
nước
32
triệu
tấn
và
xuất
khẩu
13,5
triệu
tấn.
Cần
quyết
sách
cứng
rắn
Lãnh
đạo
tập
đoàn
than
nhiều
lần
lý
giải,
chỉ
“xuất
khẩu
than
xấu
và
những
loại
than
tốt
trong
nước
không
có
nhu
cầu
tiêu
thụ”
và
giá
bán
than
cho
điện
đang
quá
thấp,
trong
khi
ngành
than
cần
nhu
cầu
vốn
lớn
để
tái
đầu
tư.
Thế
nhưng,
trước
thực
tế
an
ninh
năng
lượng
mới
của
VN
hiện
nay,
cần
những
quyết
sách
cứng
rắn
để
bảo
vệ
tài
nguyên
than
đang
cạn
kiệt.