Trước
khi
nói
đến
thất
tình,
ta
nên
tìm
hiểu
về
tình
yêu
nói
chung.
Lúc
còn
nhỏ
khi
chưa
có
phân
biệt
giới
tính
thì
cảm
nhận
tình
yêu
ở
đứa
trẻ
là
tình
thương
của
cha
mẹ.
Những
cử
chỉ
săn
sóc
trìu
mến
của
mẹ
đã
thấm
sâu
vào
tiềm
thức
nó
từ
lúc
chào
đời.
Da
thịt
êm
ấm
của
người
mẹ
là
nơi
đứa
trẻ
sơ
sinh
nương
tựa
vào
những
đêm
nó
giựt
mình
thức
dậy
vì
đói
bụng.
Cảm
giác
êm
đềm
của
ngực
mẹ
và
dòng
sữa
lúc
nào
cũng
có
sẵn
tạo
thành
cảm
nhận
hạnh
phúc
đầu
đời
của
nó.
Những
lời
ru,
những
âm
thanh
trìu
mến
của
tiếng
mẹ
đẻ,
mặc
dù
nó
chưa
hiểu
hết,
là
một
thế
giới
ngọt
ngào
chung
quanh
nó,
làm
nó
yên
tâm
nhắm
mắt
đi
vào
giấc
ngủ.
Khi
nó
lớn
lên
một
chút
thì
nó
biết
thêm
nhân
vật
thứ
nhì
trong
đời
nó,
đó
là
người
cha.
Cha
tuy
không
gần
gũi
nó
nhiều
như
mẹ
nhưng
quan
hệ
yêu
thương
của
cha
mẹ
làm
nó
mường
tượng
rằng
cha
là
người
săn
sóc
và
bảo
vệ
mẹ
con
nó.
Cha
có
nhiều
uy
quyền,
cha
có
thể
giải
quyết,
tháo
gỡ
mọi
khó
khăn,
nguy
hiểm
trong
cuộc
sống
mẹ
con
nó.
Quan
hệ
thương
yêu
của
cha
mẹ
đóng
một
vai
trò
hết
sức
là
quan
trọng
trong
cuộc
sống
tâm
lý
của
đứa
trẻ,
làm
mẫu
đầu
tiên
(prototype)
cho
những
quan
hệ
tình
yêu
sau
này
của
nó.
Có
thể
nói
quan
hệ
thương
yêu
của
cha
mẹ
gây
một
ấn
tượng
sâu
sắc
nhứt
trong
tâm
lý
đứa
trẻ
và
một
phần
nào
ảnh
hưởng
đến
định
mệnh
tình
cảm
của
đứa
trẻ
sau
này.
Ông
bà
ta
có
câu:
cha
mẹ
ăn
ở
hiền
lành
để
đức
lại
cho
con.
Mới
nghe
có
vẻ
mê
tín
dị
đoan
nhưng
khi
suy
ngẫm
kỷ
thì
nó
có
căn
bản
tâm
lý.
Cái
động
cơ
phát
triển
tâm
lý
của
đứa
trẻ
là
bắt
chước,
danh
từ
chuyên
môn
gọi
là
“mirroring”
(phản
chiếu
lại).
Cha
mẹ
dạy
nó
phải
nói
năng
khiêm
nhã,
nhưng
nếu
hai
người
chửi
lộn
với
nhau
lúc
bực
tức
thì
họ
vô
tình
ngăn
chận
cách
học
nói
chuyện
hòa
nhã
để
giải
quyết
vấn
đề
trong
tâm
hồn
đứa
con
mình.
Ðứa
nhỏ
chỉ
học
được
một
cách
duy
nhứt
giải
quyết
mâu
thuẫn
qua
những
gì
nó
đã
chứng
kiến:
lớn
tiếng
với
nhau!
Điều
mà
đứa
trẻ
cần
nhứt
là
cảm
giác
an
tâm
(secure
feeling).
Cảm
giác
này
chỉ
có
khi
hai
cái
rường
cột
mà
nó
nương
tựa
(cha,
mẹ)
sống
hài
hòa
và
thương
yêu
lẫn
nhau.
Khi
cha
mẹ
cãi
vã
nhau
trước
mặt
đứa
trẻ,
tỏ
ra
là
họ
không
hòa
hợp
với
nhau,
thì
vô
tình
họ
phá
vỡ
cái
cảm
giác
an
tâm
trong
con
mình.
Ngoài
ra
họ
còn
tạo
sự
phân
cách
(conflict,
mâu
thuẫn)
trong
tâm
hồn
đứa
trẻ.
Khi
cha
mẹ
ly
dị
thì
cảm
giác
này
sâu
đậm
hơn
nhiều.
Cha
hay
mẹ
thường
hay
nói
xấu
người
kia
để
lấy
phần
đúng
về
mình.
Ðứa
trẻ
có
cảm
giác
như
khi
nghe
theo
mẹ
thì
cha
khong
vui
và
khi
nghe
theo
cha
thì
mẹ
không
vui.
Nó
không
bao
giờ
có
một
tình
yêu
đầy
đủ.
Cha
mẹ
ly
dị
khi
đứa
bé
càng
nhỏ
thì
tác
động
tiêu
cực
lên
tâm
lý
nó
càng
nhiều.
Cảm
giác
không
an
tâm
này
có
thể
là
nguyên
nhân
ngam
thúc
đẩy
đứa
trẻ
vị
thành
niên
đi
vào
những
mối
tình
đam
mê
thiếu
sáng
suốt.
Nguy
cơ
thất
tình,
có
thai
ngoài
ý
muốn
và
tuyệt
vọng
vì
thế
sẽ
rất
cao.
Khi
đứa
trẻ
lớn
lên,
nó
sẽ
vô
tình
phản
chiếu
hoàn
cảnh
gia
đình
của
cha
mẹ
lên
quan
hệ
tình
cảm
của
nó.
Nó
sẽ
vô
tình
chọn
lựa
những
hoàn
cảnh
hay
những
đối
tượng
thích
ứng
với
cái
mô
hình
phức
tạp
đầy
mâu
thuẫn
mà
cha
mẹ
nó
vô
tình
móc
kết
vào
tiềm
thức
nó.
Sở
dĩ
tác
giả
dùng
nhieu
chữ
“vô
tình”
là
vì
những
quyết
định
và
hành
động
trên
xảy
ra
ngoài
phạm
vi
của
tầm
hiểu
biết
qua
ý
thức.
Những
hành
động
vô
tình
đó
chỉ
có
thể
nhận
ra
qua
những
lần
phân
tích
tâm
lý
(psychoanalysis).
Người
thanh
niên
thiếu
nữ
có
thể
lý
luận
rằng
người
yêu
lý
tưởng
của
họ
phải
như
thế
này
hay
thế
nọ,
nhưng
rốt
cục
họ
bị
thu
hút
bởi
típ
(type)
người
hoàn
toàn
khác.
Như
loài
cá
hồi
(salmon)
lội
ngược
dòng
sông
để
tìm
về
con
suối
nơi
mà
chúng
được
sanh
ra
và
lớn
lên,
tiềm
thức
đứa
trẻ
vị
thành
niên
tìm
kiếm
mẫu
người
có
tánh
tình
như
cha
hay
mẹ
để
lập
lại
hoàn
cảnh
của
thời
ấu
thơ.
Nếu
cha
mẹ
sống
không
hòa
hợp
thì
khả
năng
có
một
cuộc
sống
vợ
chồng
hạnh
phúc
của
đứa
trẻ
sẽ
bị
hạn
hẹp
đi
rất
nhiều.
Nó
không
có
cơ
hội
học
được
cái
mẫu
(model)
của
hạnh
phúc.
Trước
mặt
nó
chỉ
có
tranh
chấp
và
mâu
thuẫn.
“Định
mệnh”
của
nó
là
sẽ
lập
lại,
không
ít
thì
nhiều,
cuộc
sống
gia
đình
sóng
gió
như
nó
đã
từng
chứng
kiến
khi
còn
nhỏ.
Khả
năng
bị
thất
tình
của
nó
sẽ
cao
hơn
bình
thường.
Khi
đứa
trẻ
vào
tuổi
vị
thành
niên
thì
tâm
hồn
nó
bị
phân
ly
rõ
rệt.
Nó
gia
nhập
vào
vai
trò
của
giới
tính
(sex)
nó.
Nếu
là
người
nam
thì
nó
theo
gương
của
cha
nó
và
muốn
cạnh
tranh
và
vượt
qua
cha
nó
để
trở
thành
người
đàn
ông
hùng
mạnh
không
dưới
quyền
ai
hết.
Hình
ảnh
người
mẹ
bị
đẩy
sâu
vào
tiềm
thức
với
lý
do
đơn
giản
là
người
thanh
niên
không
muốn
trở
nên
“lại
cái”,
yếu
đuối,
nhu
mì.
Những
tính
tình
này
không
phù
hợp
với
vai
trò
người
con
trai.
Khi
cuộc
sống
gia
đình
không
đầm
ấm,
cảm
giác
thiếu
thốn
mất
quân
bình
về
tình
cảm
đã
xảy
ra
trươc
đó
rồi,
biến
cái
giai
đoạn
vị
thành
niên
trở
nên
khó
khăn
hơn
bình
thường.
Sự
phân
ly
trong
tâm
lý
ở
giai
đoạn
vị
thành
niên
(adolescence)
tạo
nên
một
vùng
trời
cô
đơn
trong
tâm
hồn
người
thanh
niên
mới
lớn.
Chàng
thanh
niên
đang
đi
vào
lứa
tuổi
biết
yêu,
chàng
muốn
tìm
người
thiếu
nữ
có
thể
lấp
được
sự
cô
đơn
đó.
Khi
tìm
ra
được
đối
tượng
thì
cảm
giác
đó
được
gọi
là
tình
yêu.
Thông
thường
người
thiếu
nữ
có
khả
năng
lấp
được
khoảng
trống
đó
sẽ
có
những
đặc
tính
giống
người
mẹ.
Nói
một
cách
khác
chàng
thanh
niên
thế
người
mẹ
bằng
người
yêu
để
anh
ta
có
thể
thể
hiện
tình
yêu
và
tình
dục
với
cùng
một
người.
Anh
ta
muốn
được
tình
yêu
của
mẹ
qua
người
vợ.
Truyền
thuyết
Hy
Lạp
có
chuyện
cổ
tích
chàng
Edipus
đi
lạc
nhà
từ
nhỏ,
khi
trở
về
làng
xưa,
chàng
ta
không
nhìn
ra
cha
mẹ,
chàng
vô
tình
giết
cha
để
lấy
mẹ
làm
vợ.
Truyền
thuyết
này
nói
lên
tâm
trạng
tình
yêu
diễn
ra
trong
tâm
lý
như
đã
kể
ở
phần
trên.
Cái
mà
thế
gian
gọi
là
“tình
yêu
lứa
đôi”,
đối
với
phân
tâm
học,
tình
yêu
đó
có
thể
là
một
sự
lầm
lẫn.
Sở
dĩ
như
thế
là
vì
cái
động
cơ
làm
ta
yêu
người
này
thay
vì
người
kia
nằm
sâu
trong
tiềm
thức
ta,
nó
hoàn
toàn
lọt
khỏi
tầm
ý
thức
chọn
lựa
của
ta.
Khi
hình
ảnh
người
yêu
lý
tưởng
trong
tâm
hồn
ta
được
kết
hợp
với
một
người
bằng
da
bằng
thịt,
ta
gọi
đó
là
tình
yêu.
Ta
không
thể
hiểu
tại
sao
ta
bị
cú
sét
ái
tình.
Người
ta
yêu
có
một
vẻ
quyến
rũ
gì
đó
thật
khó
tả.
Khi
gần
người
đó
ta
cảm
thấy
ta
đầy
đủ
hơn,
ta
cảm
thấy
hạnh
phúc.
Rồi
một
ngày
nào
đó
tình
yêu
ra
đi.
Hình
bóng
người
yêu
lý
tưởng
không
còn
được
kết
hợp
với
người
yêu
trần
gian
nữa.
Cũng
thời
người
đó,
bây
giờ
ta
cảm
thấy
chán
chường,
những
bản
tình
ca
của
con
tim
ta
khi
gần
người
đó
bây
giờ
im
bặt.
Thật
khó
mà
dùng
suy
luận
để
giải
thích
tình
yêu.
Nói
một
cách
khác,
sở
thích
là
một
sự
chọn
lựa
của
ý
thức
(conscious
choice).
Tình
yêu
thì
có
thể
ví
như
một
cơn
bão,
nó
đến
và
đi
ngoài
ý
muốn
của
ta.
Người
ta
yêu
không
đẹp
như
cô
hoa
hậu
nhưng
nàng
có
một
cái
gì
đó
làm
rung
động
con
tim
ta,
gợi
cho
ta
một
sự
thiếu
thốn
trong
tâm
hồn.
Ta
tin
rằng
ta
chỉ
hạnh
phúc
đầy
đủ
khi
tình
yêu
được
đáp
lại
và
ta
được
sống
mãi
mãi
bên
cạnh
người
yêu.
Ta
tưởng
ta
biết
yêu
khi
vào
tuổi
dậy
thì,
nhưng
thật
ra
phân
tâm
học
cho
thấy
rằng
những
yếu
tố
của
tình
yêu
đã
cài
đặt
sẵn
trong
tiềm
thức
của
con
người
ngay
từ
nhỏ.
Mối
tình
đầu
là
một
mối
tình
hết
sức
quan
trọng
trong
cuộc
sống
tình
cảm
của
con
người.
Mối
tình
này
cũng
là
mối
tình
lợi
hại
nhứt
có
thể
gây
ra
những
cơn
tuyệt
vọng
đến
nỗi
người
thanh
niên
thiếu
nữ
thất
tình
có
ý
định
tự
tử
vì
tuyệt
vọng.
Khi
yêu
lần
đầu,
tình
yêu
đó
rất
mãnh
liệt.
Tình
yêu
đó
là
tiếng
sét
ái
tình.
Khi
sét
đánh
vào
tim
rồi
thì
thật
khó
mà
cưỡng
lại
được.
Người
thanh
niên
thiếu
nữ
chưa
có
kinh
nghiệm
đời
nên
hết
sức
đam
mê
trong
mối
tình
đầu
đời
này.
Họ
cho
nhau
tất
cả,
họ
hy
vọng
sống
bên
nhau
suốt
đời,
họ
yêu
nhau
bằng
tất
ca
nhiệt
tình
của
trái
tim
mới
lớn,
bất
kể
những
đòi
hỏi
của
thế
giới
thực
tế
chung
quanh
họ.
Buồn
thay,
đa
số
mối
tình
đầu
không
trở
thành
mối
tình
muôn
thuở.
Lý
do
là
thế
giới
tâm
lý,
một
túp
liều
tranh
hai
quả
tim
vàng,
thật
khác
xa
với
thế
giới
thực
tế.
Người
con
trai
mới
lớn
chưa
có
nghề
nghiệp,
chưa
có
khả
năng
đảm
bảo
một
cuộc
sống
đầy
đủ
cho
người
yêu
mình.
Rồi
một
ngày
nào
đó
nàng
nghe
lời
cha
mẹ
lên
xe
hoa
với
người
khác
để
lại
một
vùng
trời
nhung
nhớ
trong
tim
người
yêu
nàng.
Đó
là
chủ
đề
rất
quen
thuộc
của
những
bài
ca
“thất
tình”
chiếm
đa
số
trong
nền
âm
nhạc
Việt
Nam.
Thật
ra,
tài
chánh
không
phải
là
yếu
tố
chính
để
những
mối
tình
đầu
tan
rã.
Yếu
tố
quan
trọng
nhất
là
thất
vọng.
Khi
bị
tiếng
sét
ái
tình
cặp
uyên
ương
sống
trong
tưởng
tượng
nhiều
hơn
là
thực
tế.
Họ
sống
trong
cái
thế
giới
màu
hồng
của
tình
yêu.
Họ
tưởng
hiểu
nhau
nhưng
thật
sự
họ
không
hiểu
nhau.
Họ
có
cái
ảo
tưởng
là
người
kia
sống
trong
tâm
hồn
họ
và
hiểu
họ
như
chính
mình
hiểu
mình
vậy.
Chính
cái
hy
vọng
và
mong
đợi
người
kia
đáp
ứng
những
đòi
hỏi
tình
cảm
không
nói
ra
của
mình
làm
tình
yêu
dễ
tan
vỡ.
Những
cơn
hờn
giận,
cãi
vã
sẽ
xảy
ra.
Hy
vọng
nhiều
đem
đến
thất
vọng
nhiều.
Có
lẽ
vì
thế
những
mối
tình
sau
sẽ
không
đẹp,
không
gây
ấn
tượng
như
mối
tình
đầu
vì
nó
mang
sự
dè
dặt,
thận
trọng,
kềm
chế
trong
đó
để
khỏi
bị
thất
vọng
nhiều.
Khi
biết
yêu,
khi
nếm
trái
cấm
của
tình
yêu
rồi
thì
con
người
ít
bao
giờ
trở
lại
sự
đầy
đủ
của
tâm
hồn
lúc
còn
bé
thơ
(sự
ngây
thơ
của
vườn
Địa
Đàng).
Họ
bị
phân
cách.
Họ
cảm
thấy
họ
phải
tìm
cho
được
người
tình
bên
ngoài
bằng
da
bằng
thịt
thì
họ
mới
thỏa
mãn.
Họ
có
thể
lấy
người
này,
bỏ
người
kia
và
suốt
đời
đi
tìm
mãi
hình
bóng
của
người
yêu
lý
tưởng
như
câu
chuyện
của
chàng
Don
Juan
vậy.
Lúc
nào
trong
tâm
hồn
họ
cũng
chứa
khoảng
trống
lạnh
lẽo
của
cô
đơn
mà
những
người
yêu
bằng
da
bằng
thịt
không
bao
giờ
lấp
được.
Họ
có
thể
ví
như
con
thuyền
đi
lạc
giữa
biển
khơi
mênh
mông
đi
từ
đảo
này
qua
đảo
kia,
con
thuyền
tưởng
đảo
là
đat
liền
nhưng
không
bao
giờ
đến
được
đất
liền.
Một
số
người
mang
mặc
cảm
tội
lỗi,
tự
ti
vì
họ
không
còn
là
con
người
đầy
đủ
nữa.
Khi
ra
khỏi
thế
giới
ngây
thơ,
họ
đã
làm
thất
lạc
cái
phân
nửa
quý
giá
nhứt
của
tâm
hồn
họ.
Trong
sự
tìm
kiếm
đó,
họ
đã
trải
qua
những
cuộc
tình
mau
phai,
họ
đi
từ
thất
vọng
này
đến
thất
vọng
khác.
Người
ta
có
thể
tự
tử
khi
tiếng
sét
ái
tình
quá
mạnh,
vì
khi
mất
tình
yêu
đó
thì
kẻ
thất
tình
lâm
vào
trạng
thái
tuyệt
vọng
trầm
trọng.
Người
thất
tình
có
cảm
tưởng
như
bị
tước
đoạt
cái
thế
giới
êm
đềm
hạnh
phúc.
Họ
có
cảm
giác
như
đứa
trẻ
mồ
côi
bị
mất
tất
cả!
Cái
thế
giới
họ
đang
sống
bị
sụp
đổ!
Nhìn
về
khía
cạnh
tâm
thần
học
(Psychiatry)
thì
tâm
trạng
thất
tình
có
nhiều
triệu
chứng
của
căn
bịnh
trầm
cảm
(depression)
và
ám
ảnh
(obsessive
compulsion).
Người
thất
tình
ủ
rũ
buồn
bã
(depression),
mất
hết
thích
thú
trong
cuộc
sống
(anhedonia),
người
thờ
thẫn
hay
lo
ra
(poor
concentration),
nhức
đầu
hay
đau
nhức
mình
mẩy
(somatic
symptoms),
mất
ăn,
mất
ngủ
(disturbance
in
appetite
and
sleep),
người
bứt
rứt
hay
cau
có
(irritability),
đầu
óc
bi
quan,
thiếu
tự
tin
(poor
self
esteem),
co
ý
nghĩ
tuyệt
vọng
(hopelessness),
và
bỏ
việc
làm,
nằm
co
ro
trong
phòng,
cảm
thấy
không
có
ai
có
thể
giúp
thoát
được
tâm
trạng
buồn
bã
này
(helplessness).
Người
thất
tình
còn
có
những
suy
nghĩ
nhớ
nhung
người
yêu
đã
bỏ
mình,
họ
muốn
đuổi
chúng
đi
mà
chúng
cứ
lẩn
quẩn
trong
đầu
hoài
như
một
loại
ám
ảnh
(obssession).
Những
ám
ảnh
này
thường
xảy
ra
buổi
tối
làm
họ
mất
ngủ.
Có
người
lấy
những
lá
thơ
tình
cũ
ra
đọc
tới
đọc
lui,
hoặc
tìm
đến
những
con
đường
mà
cả
hai
đã
từng
đi,
làm
như
vậy
mà
không
kềm
chế
được
(compulsion).
Thời
xưa
có
những
người
thất
tình
mất
ăn,
mất
uống
cho
đến
chết
vì
cơ
thể
yếu
dần.
Ngày
nay,
bịnh
thất
tình
có
thể
chữa
trị
thành
công
nếu
được
điều
trị
sớm.
Người
thất
tình
có
thể
được
trị
bằng
khoa
tâm
lý
trị
liệu
hỗ
trợ
(supportive
therapy)
giúp
người
đó
cảm
thấy
đỡ
cô
đơn
và
tìm
được
niềm
hy
vọng
mới.
Ngoài
ra
còn
có
khoa
tâm
lý
trị
liệu
điều
chỉnh
nhận
thức
và
hành
vi
(cognitive
behavioral
therapy),
chuyên
trị
những
tư
tưởng
chán
chường
bi
quan,
giúp
người
thất
tình
có
nhận
xét
trung
thực
và
hoạt
động
bình
thường
trở
lại.
Nếu
có
phương
tiện
và
cơ
hội
thì
họ
có
thể
tham
khảo
bác
sĩ
phân
tâm
học
để
được
hiểu
rõ
tiềm
thức
mình
hơn
(psychoanalysis).
Gia
nhập
các
đoàn
thể
tôn
giáo
cũng
giúp
đỡ
được
phần
nào
làm
bớt
sự
cô
đơn.
Người
thất
tình
tìm
an
ủi
trong
từ
bi
của
Phật
hay
tình
thương
không
phân
biệt
của
Chúa.
Nếu
bịnh
nặng
ảnh
hưởng
đến
ăn
và
ngủ,
ảnh
hưởng
đến
việc
học
hành
hay
công
ăn
việc
làm,
thì
người
đó
có
thể
uống
những
loại
thuốc
an
thần
trợ
giấc
ngủ
hay
loại
thuốc
trị
bịnh
trầm
cảm
và
ám
ảnh
trong
thời
gian
ngắn
hạn.
Bịnh
thất
tình
giống
như
bịnh
trầm
cảm
có
thể
dẫn
đến
nguy
cơ
tự
tử
khi
không
được
phát
giác
và
điều
trị.
Cho
nên
điều
trị
tâm
trạng
thất
tình
là
một
điều
rất
cần
thiết.
Khi
bịnh
nặng,
cách
điều
trị
tốt
nhứt
là
kết
hợp
tâm
lý
trị
liệu
và
thuốc
men.
Thuốc
an
thần
giúp
người
thất
tình
mau
bình
phục
hơn
và
tâm
lý
trị
liệu
giúp
đỡ
họ
nhìn
ra
những
nguyên
nhân
tâm
lý
gây
trục
trặc
trong
quan
hệ
tình
yêu.
Họ
sẽ
học
hỏi
được
những
cách
giao
tiếp
tránh
xung
đột
làm
quan
hệ
tình
yêu
vững
chắc
hơn.
Nói
tóm
lại
“bịnh”
thất
tình
là
một
bịnh
có
thể
trị
được
và
người
thất
tình
nên
đến
chuyên
viên
tâm
lý
để
được
trị
liệu
cho
đúng
mức.
Sự
trị
liệu
là
một
cánh
cửa
mở
ra
hy
vọng
và
hạnh
phúc
tương
lai.
Nếu
không
trị
liệu
thì
cái
khả
năng
họ
đem
“bổn
cũ
soạn
lại”
trong
những
quan
hệ
tình
yêu
tương
lai
rất
cao.
Điều
khó
khăn
là
họ
không
ý
thức
được
những
tình
cảm
hay
hành
vi
đưa
đến
trục
trặc
trong
quan
hệ
lứa
đôi.
Họ
sẽ
có
thái
độ
bi
quan
khi
trải
qua
nhiều
cuộc
tình
thất
bại
liên
tiếp.
Chính
vì
thế,
họ
cần
có
sự
hướng
dẫn
và
giúp
đỡ
của
chuyên
viên
tâm
lý
mới
nhận
ra
được
những
ẩn
khuất
của
tâm
hồn
và
vượt
qua
đó
để
có
một
cuộc
sống
hạnh
phúc.