“Mắt
lười”
là
gì?
“Mắt
lười”
(lazy
eye,
tên
nôm
na
của
bệnh
“amblyopia”)
là
bệnh
thị
giác
một
bên
hoặc
cả
hai
bên
mắt
bị
kém,
dù
có
đeo
kính
cũng
không
khá
hơn,
nhưng
khi
khám,
không
thấy
mắt
có
tổn
thương
gì
cả.
Mắt
trông
tốt
nguyên,
lẽ
ra
phải
rõ
mới
phải,
song
khi
nhìn
thì
đúng
là
không
rõ.
Mắt
nó
chỉ
lười,
không
chịu
làm
việc.
Bệnh
này
không
ít,
cứ
trong
100
người
chúng
ta,
từ
1
đến
3
người
(1-3%)
có
“mắt
lười”.
Tính
ra
như
vậy,
trong
mỗi
lớp
học,
trung
bình
có
1
em
mang
bệnh
mắt
lười.
Khổ
cái,
sự
chữa
trị
bệnh
mắt
lười
chỉ
hiệu
quả
nhất
khi
các
em
còn
nhỏ.
Càng
nhỏ,
nếu
khám
phá
sớm,
sự
trị
liệu
càng
cho
kết
quả
nhanh
và
tốt,
bảo
toàn
được
thị
giác
của
mắt
sau
này.
Sau
9-10
tuổi
thì
thường
sự
chữa
trị
không
còn
cho
kết
quả
mấy.
Đổ
tội
tại
mắt
lười,
rồi
không
chịu
làm
việc,
quả
thực
cũng
oan
cho
mắt.
Đây
đúng
ra
là
bệnh
của
phần
óc
nằm
phía
sau
đầu
(occipital
lobe
of
the
brain),
nơi
có
nhiệm
vụ
trông
coi
việc
sắp
xếp,
lọc
lựa
các
hình
ảnh
mắt
chuyển
về,
giúp
ta
nhìn
thấy
được
những
hình
ảnh
tươi
đẹp
của
cuộc
đời
bên
ngoài.
“Nhìn
thấy”
là
thành
quả
của
sự
phối
hợp
giữa
nhiều
bộ
phận,
trong
đó
có
mắt.
Mắt
ta
giống
một
máy
ảnh,
thu
nhận
các
hình
ảnh
sinh
động
của
thế
giới
bên
ngoài.
Trong
mắt
có
một
màng
lót
đặc
biệt
nằm
ở
phía
sau
gọi
là
võng
mạc
(retina),
hoạt
động
như
phim
của
máy
ảnh.
Võng
mạc
nối
liền
với
thần
kinh
thị
giác
(optic
nerve).
Các
hình
ảnh
khi
vào
mắt,
chiếu
lên
võng
mạc.
Võng
mạc
thu
nhận
hình
ảnh,
và
thần
kinh
thị
giác
biến
các
hình
ảnh
thành
những
tín
hiệu,
rồi
truyền
những
tín
hiệu
này
về
phần
óc
gọi
là
“occipital
lobe”
nằm
phía
sau
đầu.
Người
đời
vẫn
thường
nói,
có
mắt
mà
không
tròng,
làm
sao
thấy.
Ở
đây,
ngược
lại,
có
mắt,
có
tròng
đàng
hoàng,
mà
không
có
phần
óc
phía
sau
đầu,
thì
cũng
vậy
thôi.
Chỉ
khác,
mắt
không
tròng,
khi
khám,
thấy
rõ
mắt
không
tròng,
còn
bệnh
của
phần
óc
nằm
phía
sau
đầu
khó
khám
phá,
nên
ngày
trước
khi
chưa
hiểu
rõ
cơ
chế
gây
bệnh,
người
ta
đổ
tại
mắt
nó
lười,
nên
nó
chẳng
chịu
làm
việc.
Đáng
lẽ,
phải
gọi
là
bệnh
óc
lười
mới
là
đúng.
Ngay
lúc
chúng
ta
cất
tiếng
khóc
chào
đời,
chúng
ta
đã
có
mắt,
mũi,
tay
chân
đầy
đủ
cả.
Các
bộ
phận
trong
mắt,
kể
cả
võng
mạc
(retina,
màng
ghi
nhận
hình
ảnh
nằm
phía
đằng
sau
mắt)
đã
phát
triển
toàn
vẹn.
Chỉ
có
phần
óc
phía
sau
đầu,
quan
trọng
không
kém
mắt
trong
việc
giúp
chúng
ta
nhìn
và
thấy,
là
chưa
phát
triển
hẳn.
Chính
những
hình
ảnh
rõ
ràng,
sắc
nét
chiếu
trên
võng
mạc,
được
biến
thành
những
tín
hiệu,
truyền
về
phần
óc
này,
giúp
các
tế
bào
của
phần
óc
này
dần
dần
nối
kết
chặt
chẽ
với
nhau,
khiến
vùng
này
ngày
càng
trở
thành
tinh
vi,
sau
sẽ
sẵn
sàng
thi
hành
nhiệm
vụ
của
nó.
Nói
cách
khác,
trong
những
năm
đầu
đời,
chính
những
hình
ảnh
mà
mắt
phía
trước
thu
nhận
được
một
cách
đầy
đủ
là
yếu
tố
kích
thích
sự
hình
thành
của
phần
óc
phía
sau
đầu.
Những
kích
thích
này
rất
cần
thiết,
không
có
không
xong.
Nhờ
nó,
óc
(phần
phía
sau
đầu)
phát
triển
rất
mạnh
trong
vài
năm
đầu
sau
khi
ta
ra
đời.
Sau
đó,
sự
phát
triển
của
óc
sẽ
giảm
dần
và
gần
như
ngừng
lại
hẳn
vào
lúc
6
tuổi.
Như
vậy,
bệnh
mắt
lười
cần
được
khám
phá
càng
sớm
càng
tốt,
và
tất
nhiên
nên
trước
6
tuổi,
để
sự
trị
liệu
đạt
được
kết
quả
tối
hảo,
giúp
cho
mắt
dùng
tốt
trăm
phần
trăm
sau
này.
Người
ta
thấy
rõ
rằng,
các
động
vật
được
nuôi
trong
bóng
tối
mãi,
sau
sẽ
mù
dù
mắt
chúng
tốt
nguyên,
do
hai
mắt
đều
bị
bệnh
mắt
lười
cả.
Ở
người,
ai
muốn
lớn
lên
trong
bóng
tối
làm
gì,
và
cũng
chẳng
bố
mẹ
nào
nỡ
nuôi
con
trong
bóng
tối,
song
có
nhiều
vấn
đề
đưa
đến
bệnh
mắt
lười
tương
tự
như
vậy.
Chẳng
hạn:
-
Những
trường
hợp
mắt
bị
cườm
bẩm
sinh
(congenital
cataracts),
hoặc
giác
mạc
phía
ngoài
của
mắt
đục
mờ
(corneal
opacification),
khiến
những
hình
ảnh
và
ánh
sáng
bên
ngoài
không
lọt
vào
trong
mắt
được.
Như
vậy,
sẽ
thiếu
những
kích
thích
cần
thiết
để
vùng
óc
phía
sau
đầu
phát
triển.
Tình
trạng
này
chẳng
khác
gì
mắt
bị
“nuôi”
trong
bóng
tối,
sau
sẽ
mang
bệnh
“mắt
lười
do
thiếu
sự
kích
thích”
(deprivation
amblyopia).
-
Mắt
lé
(strabismus):
Khi
lé,
hai
tròng
mắt
không
cùng
thẳng,
ta
sẽ
nhìn
một
thành
hai,
nếu
óc
không
khôn
khéo
phe
lờ,
coi
như
pha
những
tín
hiệu
từ
con
mắt
bị
lé,
chỉ
coi
trọng
những
tín
hiệu
truyền
tới
từ
con
mắt
tốt.
Tức
óc
cố
giúp
ta
nhìn
thấy
một
hình
ảnh
rõ
nét,
một
là
một,
chứ
không
nhìn
một
thành
hai.
Nhưng
óc
khôn
quá
hóa
dại,
do
sau
một
thời
gian
phe
lờ
những
tín
hiệu
truyền
đạt
tới
từ
con
mắt
bên
lé,
óc
tự
hại
mình,
vì
nó
coi
thường
chính
những
tín
hiệu
giúp
nó
phát
triển,
nên
nó
trở
thành
chậm
tiến,
thiếu
khả
năng.
Mai
mốt,
dù
ta
có
chữa
được
bệnh
lé
thành
công,
nắn
được
cho
tròng
mắt
thẳng
lại,
nhưng
con
mắt
này
trông
vẫn
không
rõ,
do
phần
óc
sau
đầu
có
nhiệm
vụ
phối
hợp
với
nó
nay
đã
trở
thành
biếng
lười,
không
chịu
làm
việc.
Bệnh
mắt
lười
do
bị
lé
này
được
gọi
là
“strabismic
amblyopia”.
-
Mắt
cận
mắt
không:
Nhiều
trường
hợp
một
mắt
cận
thị,
mắt
kia
còn
tốt,
trẻ
vẫn
xem
thấy
như
thường,
bằng
mắt
không
cận,
nên
không
than
thở
gì
cả,
vẫn
vui,
vẫn
chơi,
chả
ai
biết.
Đây
là
một
trong
những
trường
hợp
khó,
vấn
đề
sẽ
nặng
dần
theo
thời
gian,
vì
không
ai
để
ý
khám
phá.
Mắt
bị
cận
không
gửi
được
những
hình
ảnh
sắc
nét
về
phần
óc
phía
sau
đầu,
khiến
phần
óc
này
không
có
những
kích
thích
tối
hảo
để
phát
triển
hết
mức.
Mắt
bị
cận
sau
vừa
cận
vừa
lười.
Bệnh
mắt
lười
do
một
mắt
cận
thị
trong
tuổi
nhỏ
để
lâu
không
biết,
không
chữa
được
gọi
“anisometropic
amblyopia”.
-
Hai
mắt
cùng
cận:
Hai
mắt
cùng
cận
dễ
khám
phá
hơn,
vì
trẻ
kêu
than,
bảo
đi
học
nhìn
không
thấy
chữ
viết
trên
bảng,
đọc
sách
thấy
nhòa,
nên
ta
dễ
khám
phá
hơn
là
một
mắt
bị
cận,
mắt
kia
tốt.
Hai
mắt
cùng
cận
nặng
mà
không
chữa
bằng
cách
cho
trẻ
đeo
kính
cận,
hoặc
contact
lens,
để
có
những
hình
ảnh
rõ
ràng
chiếu
trên
võng
mô,
rồi
được
chuyển
về
phần
óc
phía
sau
đầu,
sau
cả
hai
mắt
cũng
sẽ
bị
lười,
với
cơ
chế
tương
tự
như
của
trường
hợp
mắt
lười
do
cận
một
bên
mắt.
Chỉ
cái
tên
y
học
là
hơi
khác:
“isoametropic
amblyopia”.
(Biết
cho
vui
thôi,
bạn
không
cần
phải
ghi
nhớ
những
tên
bệnh
xa
lạ,
dài
dòng
này,
đã
có
các
bác
sĩ
chịu
khó
nhớ
hộ
cho
bạn).
Chữa
trị
Bệnh
mắt
lười
thường
chữa
được,
nếu
ta
khám
phá
nó
sớm.
Tùy
nguyên
nhân
gây
bệnh,
sự
chữa
trị
sẽ
khác
biệt:
-
Mắt
lười
do
bị
lé
(strabismic
amblyopia):
Ta
che
mắt
bên
không
lé
lại,
bắt
mắt
bên
lé
phải
làm
việc.
Cho
đến
khi
thị
giác
của
mắt
bên
lé
tốt
trở
lại,
sẽ
dùng
giải
phẫu
để
sửa
chứng
lé.
-
Mắt
lười
do
một
bên
mắt
bị
cận
(anisometropic
amblyopia):
Ta
che
con
mắt
tốt,
không
bị
cận
lại,
còn
con
mắt
cận,
bắt
nó
đeo
kính
hoặc
contact
lens,
và...
làm
việc
cho
quen,
không
được
lười.
-
Mắt
lười
do
hai
bên
mắt
cùng
cận
(isoametropic
amblyopia):
Thì
bắt
cả
hai
mắt
cùng
đeo
kính
hoặc
contact
lens
cận,
và
cùng
làm
việc
cho
giỏi.
Bao
giờ
cũng
vậy,
sự
làm
việc
là
phương
thuốc
tốt
nhất
để
chữa
bệnh
lười.
Bạn
đồng
ý?
Riêng
những
trường
hợp
mắt
lười
do
bị
cườm
bẩm
sinh,
hoặc
giác
mạc
phía
ngoài
của
mắt
mờ
đục,
sự
chữa
trị
rất
khó,
và
cần
được
khởi
sự
ngay
trong
vòng
vài
ngày
sau
khi
em
bé
mới
ra
chào
đời.
Trong
bệnh
mắt
lười,
việc
khám
phá
sớm
là
quan
trọng.
Do
thế,
với
các
em
bé
bình
thường,
dù
không
có
triệu
chứng
gì
về
mắt,
lần
khám
mắt
đầu
tiên
vẫn
nên
được
thực
hiện
trước
khi
các
em
đi
học,
nếu
có
thể
được,
trong
khoảng
tuổi
3-4
tuổi,
hoặc
sớm
hơn
càng
tốt.
(Trong
gia
đình
có
người
mang
bệnh
mắt
lười,
lé,
hoặc
mù
bẩm
sinh,
các
em
cần
được
khám
sớm
hơn).
Chờ
cho
đến
khi
em
đến
tuổi
đi
học
mới
khám
mắt
theo
đòi
hỏi
của
nhà
trường
không
đủ,
và
sẽ
là
nguyên
nhân
gây
buồn
phiền
cho
rất
nhiều
vị
phụ
huynh
của
các
em
sau
này.
BÁC
SĨ
TRƯƠNG
VĨNH
TOÀN
BÁC
SĨ
NGUYỄN
VĂN
ĐỨC