Từ
chỗ
một
lượng
vàng
rất
lớn
trong
dân
từ
trước
đến
nay
được
hệ
thống
ngân
hàng
huy
động,
hai
năm
nay
hoạt
động
này
bị
ngừng
trệ,
nay
cho
phép
trở
lại
có
thể
ví
như
sự
khơi
thông
một
dòng
chảy.
Ý
tưởng
đề
án
được
công
bố
vào
tháng
8/2011.
Đầu
tuần
này,
Thống
đốc
Nguyễn
Văn
Bình
chính
thức
gợi
mở
về
định
hướng
triển
khai.
Theo
đó,
thời
gian
tới,
nhà
nước
sẽ
đứng
ra
huy
động
vàng
thông
qua
các
tổ
chức
tín
dụng,
sử
dụng
nguồn
lực
đó
cho
nhu
cầu
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội.
Trong
những
chia
sẻ
vừa
qua,
ông
Trương
Văn
Phước,
nguyên
Vụ
trưởng
Vụ
Quản
lý
ngoại
hối
(Ngân
hàng
Nhà
nước),
Tổng
giám
đốc
Ngân
hàng
Xuất
nhập
khẩu
Việt
Nam
(Eximbank)
cũng
đã
nêu
quan
điểm
về
hướng
triển
khai
của
đề
án
trên.
“Cà
phê
cuối
tuần”
kỳ
này,
VnEconomy
tiếp
tục
giới
thiệu
góc
nhìn
của
ông
Trương
Văn
Phước
về
đề
án
trên.
Chênh
lệch
và
lợi
ích
nhóm
“G5”…
Đầu
năm
mới,
xin
chúc
ông
mạnh
khỏe
và
thành
công
trong
công
việc.
Năm
mới
nhưng
vẫn
phải
nhắc
đến
chuyện
cũ,
giá
vàng
trong
nước
vẫn
cao
hơn
nhiều
so
với
giá
thế
giới
quy
đổi.
Theo
ông,
nguyên
do
từ
đâu?
Chênh
lệch
đó
đã
tồn
tại
từ
rất
lâu
rồi.
Nhưng
thời
gian
vừa
qua
thì
có
độ
chênh
tương
đối
lớn.
Theo
tôi
có
một
số
lý
do
chủ
yếu
như
sau.
Thứ
nhất,
do
phải
hạn
chế
nhập
siêu
nên
Ngân
hàng
Nhà
nước
hết
sức
dè
dặt
việc
cho
phép
nhập
khẩu
vàng,
tiết
kiệm
ngoại
tệ.
Do
đó
giá
quốc
tế
của
vàng
tính
qua
tỷ
giá
hối
đoái
chỉ
là
một
mức
giá
mang
tính
ý
niệm
và
tham
khảo
mà
thôi.
Thứ
hai,
thị
trường
luôn
kỳ
vọng
sự
tăng
giá
của
USD
so
VND,
làm
cho
mức
giá
vàng
trong
nước
cao
hơn
giá
quy
đổi.
Một
lý
do
nữa,
vàng
giao
dịch
trong
nước
đại
bộ
phận
là
vàng
vật
chất,
tỷ
trọng
rất
lớn
là
vàng
SJC,
đòi
hỏi
phải
có
thời
gian
gia
công
nên
mức
chênh
lệch
này
cao
hơn.
Nhưng
tôi
nghĩ
trong
kinh
doanh
mua
bán
vàng,
quan
trọng
nhất
là
mức
chênh
lệch
giữa
giá
mua,
giá
bán.
Chênh
lệch
hiện
nay
khoảng
60.000/70.000
đồng/lượng
vàng
là
chấp
nhận
được
vì
tính
thanh
khoản
của
vàng
là
rất
cao.
Ai
bán
cũng
có
người
mua,
ai
mua
cũng
có
người
bán.
Dù
còn
những
hạn
chế
về
công
cụ
can
thiệp,
nhất
là
về
khung
pháp
lý,
nhưng
năm
qua
Ngân
hàng
Nhà
nước
cũng
đã
vào
cuộc,
điển
hình
là
giải
pháp
mở
lại
tài
khoản
vàng
với
sự
tham
gia
của
nhóm
“G5+1”
theo
cách
nói
của
nhiều
người.
Tuy
nhiên,
chênh
lệch
đó
vẫn
chưa
được
rút
ngắn
triệt
để.
Là
đại
diện
một
thành
viên
tham
gia
giải
pháp
đó,
ông
có
giải
thích
gì
không?
Một
số
ý
kiến
cho
rằng
ở
đây
có
lợi
ích
lớn
cho
riêng
các
thành
viên
tham
gia,
quan
điểm
của
ông
như
thế
nào?
Trước
hết,
phải
nói
rằng
việc
cho
mở
lại
tài
khoản
vàng
vào
tháng
10/2011
là
việc
làm
rất
đáng
hoan
nghênh
của
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Thực
ra,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
cho
một
số
ngân
hàng
thương
mại
và
một
số
doanh
nghiệp
kinh
doanh
vàng
mở
tài
khoản
vàng
ở
nước
ngoài
từ
năm
2004.
Lúc
đó,
các
công
cụ
phái
sinh
về
vàng
được
thực
hiện
giao
dịch
thông
qua
các
tài
khoản
vàng
đã
trở
thành
các
công
cụ
phòng
chống
rủi
ro
rất
hiệu
quả.
Nhưng
sau
đó,
khoảng
đầu
2010,
do
biến
động
giá
trên
các
sàn
vàng
tác
động
mạnh
đến
tỷ
giá,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
yêu
cầu
đóng
các
tài
khoản
vàng.
Và
thời
gian
sau,
việc
chuyển
hoá
vàng
từ
nguồn
vàng
huy
động
của
các
ngân
hàng
qua
VND
cũng
không
được
phép,
cũng
như
chấm
dứt
hoạt
động
huy
động
và
cho
vay
vàng.
Những
yếu
tố
cộng
hưởng
đó
cùng
với
việc
hầu
như
không
cho
nhập
vàng
nữa
đã
làm
cho
giá
vàng
trong
nước
tăng
hơn
giá
quốc
tế
quy
đổi,
có
lúc
lên
hơn
3
đến
4
triệu
đồng/lượng.
Thuật
ngữ
“G5+1”
ra
đời
vào
tháng
10/2011
trong
bối
cảnh
đó.
Có
5
ngân
hàng
thương
mại
với
thế
mạnh
huy
động
và
cho
vay
vàng
cùng
với
SJC
đã
trở
thành
lực
lượng
can
thiệp
chủ
yếu
giúp
tạo
nguồn
cung
bán
ra
khá
lớn
trên
thị
trường
trong
nước,
chỉ
3
tháng
cuối
năm
2011
đã
bán
ra
trên
mấy
chục
tấn
vàng.
Phải
thừa
nhận
rằng
sự
can
thiệp
này
là
có
hiệu
quả
lớn,
vì
từ
chênh
lệch
mấy
triệu
đồng/lượng,
trong
thời
gian
can
thiệp
bình
quân
mức
chênh
lệch
này
khoảng
900.000
đồng/lượng,
thậm
chí
có
lúc
còn
400.000
đồng.
Hiện
nay
mức
chênh
lệch
này
là
750.000
đồng.
Sự
rút
ngắn
về
chênh
lệch
giá
như
thế
là
khá
triệt
để
đấy
chứ!
Việc
so
sánh
hai
mức
giá
trong
nước
và
quốc
tế
quy
đổi
thực
ra
là
rất
tương
đối.
Tiết
kiệm
khoảng
2
tỷ
USD
vì
không
cần
nhập
khẩu
mấy
chục
tấn
vàng
can
thiệp
mà
người
dân
vẫn
được
mua
vàng
với
giá
tương
đối
thấp
là
một
thực
tế
đáng
suy
nghĩ
trước
một
nguồn
lực
tài
chính
quan
trọng
là
vàng.
Còn
dư
luận
về
lợi
ích
của
nhóm
“G5”
thưa
ông…
Đó
cũng
là
một
vấn
đề
cần
làm
rõ.
Không
cho
nhập
khẩu
vàng
thì
không
còn
sự
liên
thông
nữa
dưới
góc
độ
trạng
thái
vàng
(position).
Tức
là
bán
đi
100
kg
vàng
trong
nước
(từ
nguồn
huy
động
tiết
kiệm
vàng
của
dân)
thì
không
thể
chở
100
kg
vàng
ở
nước
ngoài
về
nhập
kho
trả
lại
cho
dân
được.
Đã
có
sự
nhầm
lẫn
khi
tính
toán
phép
tính
đơn
giản
đó.
Mà
thực
ra
là
bán
trong
nước
1
lượng
vàng,
ví
dụ
44
triệu
đồng,
thì
nay
phải
mua
45,3
triệu
đồng,
tức
là
lỗ
1,3
triệu
đồng.
Nhưng
nhờ
có
tài
khoản
vàng
nước
ngoài,
khi
bán
trong
nước
thì
mua
tương
đương
3.214
ounce
ở
nước
ngoài,
ví
dụ
ở
mức
giá
1.690
USD/ounce,
nay
bán
quốc
tế
1.740
USD/ounce
thì
lãi
được
50
USD/ounce,
tương
đương
1,2
triệu.
Như
vậy
thì
các
ngân
hàng
can
thiệp
vẫn
phải
chịu
lỗ.
Họ
đem
lợi
nhuận
ở
nước
ngoài
về
chia
xẻ
cho
những
người
dân
đã
mua
vàng
vật
chất
với
giá
thấp
trước
đây.
Đương
nhiên
là
các
ngân
hàng
này
có
bị
lỗ
không?
Chắc
là
không.
Vì
sao?
Là
vì
trước
đây
họ
huy
động
vàng
tốn
chi
phí
nhiều
nhưng
Ngân
hàng
Nhà
nước
cấm
họ
không
được
cho
vay,
cũng
không
chuyển
hoá
qua
tiền
đồng.
Họ
bị
lỗ
lớn.
Nay
tham
gia
can
thiệp,
họ
được
chuyển
hoá
qua
tiền
đồng
thì
sử
dụng
tiền
đồng
này
có
sinh
lời,
vừa
bù
đắp
chi
phí
huy
động
vàng
và
khoản
lỗ
trong
can
thiệp.
Đương
nhiên
là
lượng
tiền
đồng
này,
theo
yêu
cầu
can
thiệp
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
mua
bán
thường
xuyên
nên
cũng
không
phải
có
số
kết
dư
nhiều.
Về
lâu
dài,
theo
ông,
có
cách
nào
để
giải
quyết
triệt
để
chênh
lệch
đó
không?
Và
ông
có
thể
chia
sẻ
dự
báo
của
mình
về
giá
vàng
trong
năm
nay?
Cách
duy
nhất
để
giải
quyết
triệt
để
chênh
lệch
giá
vàng
trong
nước
và
giá
vàng
quốc
tế
quy
đổi
đó
là
việc
cho
phép
kinh
doanh
vàng
tài
khoản
trong
nước
và
kinh
doanh
vàng
tài
khoản
nước
ngoài.
Tất
nhiên
là
hoạt
động
này
cần
phải
được
quản
lý
chặt
chẻ,
thực
hiện
thông
qua
hệ
thống
ngân
hàng
thương
mại.
Giá
vàng
quốc
tế
được
sử
dụng
như
là
mức
giá
tham
chiếu,
cùng
với
tỷ
giá
USD/VND,
sẽ
tạo
nên
mức
giá
vàng
yết
bằng
VND.
Về
dự
báo
giá
vàng
trong
năm
nay,
tôi
xin
chia
sẻ
một
số
thông
tin
mà
các
tổ
chức
quốc
tế
đã
dự
báo,
có
thể
vàng
sẽ
đạt
mức
2.000
USD/ounce,
thậm
chí
là
2.200
USD/ounce
vào
cuối
năm
2012.
Đó
có
thể
là
các
mức
đỉnh
ở
những
thời
điểm,
mức
bình
quân
giá
của
năm
theo
tôi
là
1.900
USD/ounce.
Nếu
dự
báo
như
thế
thì
đường
xu
hướng
(trend
line)
của
vàng
là
đi
lên.
Tuy
nhiên,
trong
ngắn
hạn
vàng
có
thể
lên
giá
thêm
nhưng
trung,
dài
hạn
phải
hết
sức
thận
trọng
với
sự
đảo
chiều
của
giá
vàng,
vì
vàng
đã
tăng
giá
cực
kỳ
nhanh
trong
mấy
năm
qua
rồi
trong
bối
cảnh
khủng
hoảng
kinh
tế
của
thế
giới.
Khi
nắm
một
nguồn
lực
lớn
trong
tay…
Trở
lại
đề
án
huy
động
vàng
trong
dân
như
đề
cập
ở
trên,
ông
định
hình
thế
nào
về
nội
dung
và
hướng
triển
khai
của
nó?
Vàng
là
một
nguồn
lực
tài
chính
cần
phải
thừa
nhận
trong
nền
kinh
tế
nước
ta.
Cho
nên
huy
động
vàng
trong
dân
là
một
chủ
trương
đúng.
Thị
trường
quốc
tế
thừa
nhận
tính
chuyển
đổi
của
vàng,
tất
nhiên
là
vàng
theo
tiêu
chuẩn
quốc
tế.
Tôi
chưa
nghiên
cứu
đề
án
huy
động
vàng
của
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Nhưng
có
thể
hình
dung
như
thế
này.
Ngân
hàng
Nhà
nước
cho
phép
các
ngân
hàng
thương
mại
quay
trở
lại
huy
động
vàng,
với
tư
cách
là
các
đại
lý
nhận
ủy
thác
để
họ
sử
dụng
lượng
vàng
huy
động
được
này
mua
tín
phiếu
của
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Lượng
vàng
này
có
thể
đem
về
Ngân
hàng
Nhà
nước
hay
để
tại
kho
của
các
ngân
hàng.
Tùy
tình
hình
cụ
thể,
Ngân
hàng
Nhà
nước
có
thể
đem
hoán
đổi
(swap)
lượng
vàng
này
với
các
ngân
hàng
nước
ngoài
để
thu
về
ngoại
tệ.
Hoặc
có
thể
ủy
thác
cho
các
ngân
hàng
hoán
đổi
với
ngân
hàng
nước
ngoài.
Lượng
ngoại
tệ
thu
được
này
tất
yếu
là
một
khoản
mục
của
cán
cân
thanh
toán,
làm
tăng
dự
trữ
ngoại
hối
nhà
nước.
Mặt
khác,
Ngân
hàng
Nhà
nước
cũng
có
thể
sử
dụng
nguồn
vàng
huy
động
này
để
thực
hiện
việc
can
thiệp
trên
thị
trường
vàng
bằng
cách
bán
vàng
ra
thị
trường
thông
qua
hệ
thống
các
ngân
hàng
thương
mại.
Nói
tóm
lại
là
khi
đã
có
một
lượng
vàng
lớn
trong
tay
thì
Ngân
hàng
Nhà
nước
có
rất
nhiều
cách
để
sử
dụng
nguồn
lực
này.
Sử
dụng
nguồn
lực
đó,
giá
trị
hay
tính
hiệu
quả
của
đề
án
khi
triển
khai
nên
nhìn
nhận
ở
những
điểm
nào,
thưa
ông?
Điểm
đầu
tiên
có
thể
thấy
được
là:
từ
chỗ
một
lượng
vàng
rất
lớn
trong
dân
từ
trước
đến
nay
được
hệ
thống
ngân
hàng
huy
động,
hai
năm
nay
hoạt
động
này
bị
ngừng
trệ,
nay
cho
phép
trở
lại
có
thể
ví
như
sự
khơi
thông
một
dòng
chảy.
Nó
không
chỉ
giúp
cho
các
ngân
hàng
trở
lại
các
dịch
vụ
liên
quan
đến
vàng,
mà
quan
trọng
hơn
rất
nhiều
là
tạo
ra
một
khuôn
khổ
pháp
lý
đảm
bảo
về
quyền
tài
sản
là
vàng
của
người
dân.
Điểm
thứ
hai,
theo
tôi,
bấy
lâu
nay
chúng
ta
hay
nói
đến
câu
chuyện
“chống
vàng
hoá”,
chúng
ta
biết
cái
gì
phải
làm,
nhưng
làm
nó
như
thế
nào
thì
có
vẻ
như
còn
lúng
túng.
Đề
án
huy
động
vàng
lần
này
biểu
hiện
một
cách
làm
mới,
mà
khả
năng
thành
công
là
rất
cao.
Điểm
thứ
ba,
như
chúng
ta
đều
biết
ngoài
chức
năng
là
một
hàng
hóa
thông
thường,
trong
những
điều
kiện
nhất
định
vàng
còn
là
một
tài
sản
tài
chính
và
tính
chuyển
đổi
của
nó
qua
ngoại
tệ
là
rất
cao.
Đất
nước
ta
phải
tiếp
tục
xử
lý
bài
toán
cân
đối
ngoại
tệ
ở
tầm
quốc
gia
trong
nỗ
lực
công
nghiệp
hóa,
hiện
đại
hóa
đất
nước
cho
nên
huy
động
vàng
trong
dân
mở
ra
cơ
hội
góp
phần
đáp
ứng
bài
toán
cân
đối
này.
Cuối
cùng
dưới
góc
độ
điều
hành
chính
sách
tiền
tệ,
hoạt
động
mua
bán
vàng
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
với
thị
trường
có
thể
xem
như
một
công
cụ
tác
động
đến
cung
ứng
tiền
và
tác
động
đến
tâm
lý
của
thị
trường
nữa.
Trong
định
hướng
đưa
ra,
Ngân
hàng
Nhà
nước
có
nói
rằng
sẽ
có
công
cụ
để
“bảo
hiểm
rủi
ro”
về
giá.
Theo
ông,
cơ
chế
bảo
hiểm
đó
được
thực
hiện
như
thế
nào?
Nếu
chúng
ta
tiếp
cận
được
các
công
cụ
bảo
hiểm
rủi
ro
của
thị
trường
quốc
tế
thì
bảo
hiểm
rủi
ro
về
giá
vàng
là
điều
nên
làm.
Có
vẻ
như
người
Việt
chúng
ta
khi
tham
gia
giao
dịch
vàng
phần
lớn
là
thực
hiện
theo
chiều
mua,
không
phải
là
họ
không
dự
báo
được
giá
vàng
có
thời
điểm
đi
xuống,
nhưng
nếu
không
có
vàng
sẵn
trong
tay
thì
làm
cách
nào
để
bán
đi
rồi
mua
lại
khi
giá
xuống.
Tôi
nêu
thí
dụ
đó
để
thấy
rằng
các
công
cụ
phái
sinh
là
rất
quan
trọng
cho
nghiệp
vụ
bảo
hiểm
rủi
ro
về
giá.
Sau
khủng
hoảng
tín
dụng
ở
Mỹ
năm
2008,
các
nhà
làm
chính
sách
của
chúng
ta
khá
dè
dặt
về
các
công
cụ
phái
sinh.
Đó
là
điều
có
thể
hiểu
được.
Nhưng
sử
dụng
các
công
cụ
phái
sinh
thì
cần
phải
gắn
chặt
nó
vào
trong
các
điều
kiện
cụ
thể
của
thị
trường.
Ở
ta
thì
còn
rất
lâu
nữa
mới
đặt
ra
chuyện
biến
tướng,
hệ
luỵ
từ
các
công
cụ
phái
sinh.
Như
ông
đề
cập,
cũng
như
trong
định
hướng
của
Ngân
hàng
Nhà
nước,
là
có
thể
chuyển
đổi
một
phần
nguồn
lực
vàng
huy
động
được
thành
ngoại
tệ,
thành
dự
trữ
ngoại
tệ.
Có
hợp
lý
không
khi
xem
rằng
đó
là
biến
“của
người”
thành
“của
ta”?
Nếu
nói
như
thế
thì
một
lúc
nào
đó
sẽ
có
người
đặt
câu
hỏi
mấy
trăm
tấn
vàng
trong
dân
hiện
nay
có
phải
là
“của
ta”
không?
Vì
ta
có
sản
xuất
ra
vàng
được
đâu.
Nhưng
người
dân
ta
sản
xuất
ra
sức
lao
động,
tạo
ra
hàng
hoá
xuất
khẩu,
thu
về
ngoại
tệ,
tất
nhiên
một
lượng
ngoại
tệ
trong
đó
từ
trước
đến
nay
đã
chuyển
qua
vàng.
Cho
nên
trong
cái
ngoại
tệ
“của
người”
đó
bản
chất
nó
cũng
đã
có
một
phần
“của
ta”
rồi.
Ở
đây
là
một
thuyết
tương
đối.
Nói
dài
dòng
vậy
thôi,
chứ
thị
trường
tài
chính
quốc
tế
họ
chuyên
làm
chuyện
này
mà.
Một
tài
sản
tài
chính
này
mua
đứt,
bán
đoạn
thành
một
tài
sản
tài
chính
khác
thì
ai
cũng
biết
nghiệp
vụ
đó
là
mua
bán
giao
ngay
(spot).
Còn
cấm
cố
thế
chấp
tài
sản
này
để
có
tài
sản
kia
thì
đó
là
nghiệp
vụ
hoán
đổi
(swap).
Giả
sử
ta
bán
giao
ngay
lượng
vàng
trong
dân
thì
lập
tức
làm
chủ
được
lượng
ngoại
tệ
“của
người”
rồi.
Ngay
cả
những
dòng
vốn
nước
ngoài
vào
tạm
thời
ở
nước
ta
như
là
đầu
tư
gián
tiếp
chẳng
hạn
thì
cũng
góp
phần
bằng
cách
này
hay
cách
khác
vào
trong
dự
trữ
ngoại
hối
nước
ta
cơ
mà.
Mục
đích
và
mong
muốn
là
vậy,
nhưng
khi
triển
khai
đề
án
trên,
khi
vận
hành
nguồn
lực
đó,
theo
ông
đâu
là
những
yếu
tố
rủi
ro
cần
tính
đến?
Nói
không
có
rủi
ro
gì
cả
thì
có
vẻ
là
quá
chủ
quan.
Nhưng
tôi
tin
rằng
rủi
ro
là
vô
cùng
bé.
Có
những
khó
khăn
có
thể
gặp
phải
nhưng
chỉ
mang
tính
kỹ
thuật
mà
thôi,
cần
phải
dự
báo
trước
khi
triển
khai
đề
án.
Chẳng
hạn
như
khi
người
dân
muốn
rút
vàng
trước
hạn
thì
xử
lý
thế
nào?
Ngân
hàng
thương
mại
có
được
chiết
khấu
các
tín
phiếu
vàng
đã
mua
Ngân
hàng
Nhà
nước
trước
hạn
không?
Nhu
cầu
mua
bán
vàng
của
người
dân
được
đáp
ứng
ra
sao...
Đó
là
những
vấn
đề
có
thể
xử
lý
được.
Lời
giải
cho
một
phân
khúc
Còn
về
lợi
ích
của
người
sở
hữu
vàng?
Hay
làm
sao
để
họ
quyết
định
và
tin
tưởng
gửi
vàng
vào
ngân
hàng
khi
triển
khai
đề
án,
thưa
ông?
Sử
dụng
VND
mua
vàng
gửi
vào
ngân
hàng
thương
mại
để
bảo
toàn
đồng
vốn
của
mình
suy
cho
cùng
là
một
sự
đánh
đổi.
Vì
lãi
suất
gửi
vàng
chắc
chắn
là
thấp
hơn
nhiều
so
với
lãi
suất
VND.
Giá
vàng
có
thể
tăng
lên
mà
cũng
giảm
xuống.
Nhưng
muc
tiêu
chính
sách
đặt
ra
là
tìm
lời
giải
tối
ưu
cho
một
phân
khúc
của
thị
trường
tài
chính
nước
ta
là
thị
trường
vàng,
là
nguồn
lực
vàng
trong
dân.
Những
diễn
biến
của
thị
trường
tự
khắc
nó
sẽ
là
những
đầu
vào
thông
tin
để
người
dân
tự
điều
chỉnh
quyết
định
đầu
tư
của
mình.
Như
trao
đổi
trước
đây
ông
nói
rằng,
một
nghiệp
vụ
cấu
thành
cho
cơ
chế
huy
động
này
là
mở
tài
khoản
vàng
cho
người
dân.
Vậy
nên
mở
như
thế
nào
và
liệu
có
dẫn
đến
những
bất
cập,
xáo
trộn
như
giao
dịch
vàng
tài
khoản
qua
các
sàn
vàng
những
năm
trước
đây?
Người
dân
gửi
vàng
vào
một
tài
khoản
tiết
kiệm
tại
ngân
hàng
thì
tự
nhiên
đã
hình
thành
một
tài
khoản
vàng
của
người
dân
rồi.
Điều
mà
thị
trường
mong
đợi
là
làm
sao
thay
đổi
một
tập
quán
đã
tồn
tại
rất
lâu
ở
nước
ta
là
người
dân
thích
mua
bán
vàng
vật
chất.
Nếu
có
một
vật
thể
làm
vật
tham
chiếu
(reference)
cho
sự
biến
động
giá
vàng
mà
không
tham
chiếu
vào
thỏi
vàng
vật
chất
cụ
thể
thì
đó
chỉ
có
thể
là
một
chỉ
số,
một
index.
Chỉ
số
này
tất
yếu
phải
tham
chiếu
vào
giá
vàng
quốc
tế
và
tỷ
giá
USD/VND.
Cho
nên
nếu
các
ngân
hàng
mở
tài
khoản
vàng
ở
nước
ngoài
thì
có
thể
cung
ứng
dịch
vụ
mua
bán
vàng
trực
tiếp
cho
người
dân,
nhu
cầu
mua
bán
vàng
vật
chất
lúc
đó
chắc
chắn
sẽ
giảm
đi
nhiều.
Sẽ
không
có
gì
bất
cập
hay
xáo
trộn
như
ở
các
sàn
vàng
trước
đây
vì
dịch
vụ
này
chỉ
thuần
túy
là
mua
bán
vàng
trên
tài
khoản
gần
như
sao
chụp
biến
động
giá
vàng
quốc
tế.
Tất
nhiên
là
cũng
phải
xử
lý
những
vấn
đề
mang
tính
kỹ
thuật,
như
là
trạng
thái
vàng
của
các
ngân
hàng
trong
nước
tại
các
ngân
hàng
nước
ngoài.