Hiện
nay
có
không
ít
doanh
nghiệp
buộc
phải
bỏ
cuộc
vì
không
thể
đáp
ứng
được
2
điều
kiện
ngặt
nghèo
của
Nghị
định
109.
Thông
tin
khiến
các
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
gạo
cảm
thấy
dễ
thở
ở
thời
điểm
hiện
nay
chính
là
việc
Bộ
Công
Thương
cùng
các
ban
ngành
liên
quan
cuối
cùng
đã
đồng
ý
nới
rộng
thời
gian
thực
hiện
các
hạng
mục
theo
yêu
cầu
của
Nghị
định
109
thêm
một
năm,
tức
là
đến
ngày
1-10-2012.
Dẫu
vậy,
xoay
trở
tình
thế
chẳng
hề
đơn
giản.
Vẫn
chuyện
bí
vốn
Hiện
nay
có
không
ít
doanh
nghiệp
buộc
phải
bỏ
cuộc
vì
không
thể
đáp
ứng
được
2
điều
kiện
ngặt
nghèo
của
Nghị
định
109:
Có
ít
nhất
1
kho
chuyên
dùng
với
sức
chứa
tối
thiểu
5.000
tấn
lúa,
phù
hợp
với
quy
chuẩn
chung
do
Bộ
NN&PTNT
ban
hành
và
có
ít
nhất
1
cơ
sở
xay
xát
lúa,
gạo
với
công
suất
tối
thiểu
10
tấn
lúa/giờ.
Cho
dù
được
gia
hạn
đi
nữa
thì
trong
bối
cảnh
khan
hiếm
vốn
như
hiện
nay,
cũng
không
mấy
doanh
nghiệp
đủ
sức
đeo
đuổi
đến
cùng
việc
đầu
tư
nhà
máy
xay
xát,
kho
chứa
lúa.
Bà
Vũ
Thị
Thu
Hạnh,
Giám
đốc
Công
ty
Ngũ
cốc
Việt
cho
biết,
bà
đã
"quần"
khắp
khu
vực
ĐBSCL,
tìm
vị
trí
thích
hợp
để
mua
đất,
lắp
đặt
máy
móc.
Nhưng
tới
nay
chưa
thể
nộp
hồ
sơ
xin
thẩm
định
do
chưa
đầu
tư
máy
móc
theo
đúng
quy
định,
vì
nếu
đặt
làm
máy
trong
năm
nay
phải
qua
năm
sau
mới
lắp
đặt
được.
Bà
than:
"Không
tính
đất
đai,
chỉ
riêng
phần
đầu
tư
vào
nhà
xưởng,
máy
móc,
doanh
nghiệp
đã
phải
vay
30
-
40
tỉ
đồng
với
mức
lãi
suất
cao
để
có
cơ
sở
vật
chất
đáp
ứng
yêu
cầu.
Vậy
nhưng,
chẳng
ai
dám
đảm
bảo
đầu
tư
như
vậy
sẽ
có
hợp
đồng
xuất
khẩu
tương
ứng!
Chưa
kể,
ở
ĐBSCL
tồn
tại
tình
trạng
kho
mọc
như
nấm
dọc
theo
các
tuyến
thương
lái
chuyên
chở
lúa
gạo,
nhưng
chủ
yếu
lại
đang
nằm
không."
Từ
góc
độ
của
một
đơn
vị
xuất
khẩu
lớn
nhất
tỉnh
Tiền
Giang,
ông
Lê
Thanh
Khiêm,
Phó
Giám
đốc
Công
ty
Lương
thực
Tiền
Giang
cũng
thấy
chẳng
dễ
dàng
hơn
trong
việc
thu
xếp
vốn
đầu
tư
cho
việc
xây
dựng
kho
bãi
cũng
như
đầu
tư
vào
dây
chuyền
công
nghệ
sản
xuất.
Để
gỡ
khó
cho
doanh
nghiệp,
ông
Khiêm
lại
phải
kiến
nghị
điều
không
có
gì
mới
mẻ:
đề
nghị
Nhà
nước
hỗ
trợ
về
chính
sách
vốn
đầu
tư,
giải
phóng
mặt
bằng,
chuyển
quyền
sử
dụng
đất…
Mắc
mớ
quyền
lợi
các
bên
Theo
nhìn
nhận
của
nhiều
chuyên
gia,
tuy
Nghị
định
109
đã
được
bàn
thảo
cả
năm,
nhưng
khi
ban
hành
lại
có
vẻ
như
chỉ
mang
tính
chất
"chữa
cháy",
bởi
chỉ
giúp
loại
bỏ
bớt
một
phần
đầu
mối
nhỏ
lẻ
mà
thiếu
cái
nhìn
đại
cục,
thiếu
giải
pháp
sâu
xa.
Nói
cách
khác,
Nghị
định
chỉ
đáp
ứng
điều
kiện
cần,
nhưng
chưa
đủ.
Chiếu
vào
thực
tế,
câu
chuyện
triển
khai
Nghị
định
này
không
chỉ
vướng
từ
năng
lực
vốn
của
doanh
nghiệp
mà
còn
khiến
nhiều
chuyên
gia
đặt
câu
hỏi
về
việc
minh
bạch
giá
thu
mua
lúa.
Theo
Nghị
định
109,
thương
nhân
kinh
doanh
xuất
khẩu
gạo
phải
có
kho
chuyên
dùng
với
sức
chứa
tối
thiểu
5.000
tấn.
Điều
tưởng
như
giúp
thanh
lọc
các
doanh
nghiệp
nhỏ
lại
được
nhìn
nhận
rằng,
chẳng
thể
giải
quyết
được
việc
thiếu
kho
chứa
lúa
gạo
hiện
nay
mà
còn
hạn
chế
cạnh
tranh
vì
xóa
bỏ
các
doanh
nghiệp
nhỏ.
Chuyên
gia
kinh
tế
Nguyễn
Đình
Bích
bình
luận:
nếu
Chính
phủ
ấn
định
được
giá
sàn,
nghiêm
trị
được
các
doanh
nghiệp
bán
dưới
giá
sàn,
chúng
ta
sẽ
chẳng
cần
phải
quan
tâm
đến
chuyện
doanh
nghiệp
có
kho
chứa
hay
không.
Tuy
nhiên,
đứng
ở
góc
độ
khác,
Giáo
sư
Tiến
sĩ
Võ
Tòng
Xuân
lại
cho
rằng,
ở
Việt
Nam
hiện
có
trên
230
nhà
xuất
khẩu
gạo,
nhưng
mỗi
lần
chỉ
có
vài
"nhà"
xuất
được
ở
mức
vài
triệu
tấn/năm
còn
lại
chỉ
đủ
sức
xuất
vài
trăm
tấn.
Điều
đáng
nói,
rất
nhiều
"nhà
xuất
khẩu"
lẻ
tẻ
này
không
có
ruộng
lúa,
không
có
nhà
máy
xay
xát,
kho
dự
trữ…
nhưng
lại
"ăn"
trên
đầu
trên
cổ
nông
dân
vì
chỉ
biết
mua
gom
gạo
của
thương
lái
chỗ
này
một
ít,
chỗ
kia
một
ít.
Chính
vì
vậy,
phải
gắn
"4
nhà"
với
nhau.
Bản
thân
nhà
nông
cũng
phải
biết
gắn
kết
với
nhau
trên
phạm
vi
một
vài
xã
để
có
chung
vùng
nguyên
liệu.
1.000
nông
dân
phải
làm
chung
một
quy
trình
Viet
GAP
trong
sản
xuất
lúa
để
cho
ra
chung
một
giống
lúa
cung
cấp
cho
nhà
doanh
nghiệp,
ông
Xuân
nói.
Tiến
sĩ
Võ
Hùng
Dũng,
Giám
đốc
Chi
nhánh
VCCI
tại
Cần
Thơ
chia
sẻ,
để
kinh
doanh
xuất
nhập
khẩu
lúa
gạo,
cần
có
những
điều
kiện
gắn
thương
nhân
với
sự
phát
triển
của
khu
vực
nông
nghiệp.
Nếu
tự
do
hóa
mà
không
ràng
buộc
đầu
tư
phát
triển
thì
những
thương
nhân
bên
ngoài
vào
sẽ
hưởng
lợi
lớn.
Chính
phủ
đầu
tư,
nông
dân
hưởng
lợi
không
nhiều,
nhưng
thương
nhân
thuần
túy
thương
mại
sẽ
thu
lợi
nhờ
đầu
cơ
hoặc
móc
nối
nhau
trong
việc
phân
chia
thị
trường.
Nhìn
từ
góc
độ
Nghị
định
109,
dù
đưa
ra
giải
pháp
khá
mạnh
tay
nhưng
chưa
thật
sự
đi
vào
căn
nguyên
vấn
đề,
Tiến
sĩ
Lê
Văn
Bảnh,
Viện
trưởng
Viện
Lúa
ĐBSCL
cho
rằng,
các
doanh
nghiệp
nhỏ
muốn
kinh
doanh
phải
liên
kết
lại
với
nhau,
giúp
họ
chuyên
nghiệp
hơn
trong
kinh
doanh
xuất
khẩu
gạo.
Thêm
nữa,
vấn
đề
hiện
nay
là
cải
cách
phương
thức
sản
xuất,
làm
sao
có
liên
kết
"4
nhà"
mà
chủ
lực
là
người
sản
xuất
và
doanh
nghiệp.
Muốn
vậy,
nông
dân
phải
có
vùng
nguyên
liệu.
Muốn
có
sản
phẩm
chất
lượng,
đảm
bảo
yêu
cầu
số
lượng
thì
doanh
nhiệp
cần
phải
đặt
hàng,
ký
hợp
đồng
bao
tiêu
sản
phẩm,
đầu
tư
vào
vùng
nguyên
liệu,
tạo
thương
hiệu
với
thị
trường.
Nông
dân
cũng
phải
liên
kết,
hợp
tác
trong
sản
xuất
để
làm
đối
tác
quan
trọng
của
doanh
nghiệp.
Thực
tiễn
lâu
nay,
thương
lái
tức
là
bạn
hàng,
đã
giúp
ích
rất
đắc
lực
và
là
cầu
nối
không
thể
thiếu
của
nông
dân
và
doanh
nghiệp.
Chính
vì
thế,
cũng
nên
coi
họ
là
một
phần
trong
khâu
phân
phối
mặt
hàng
xuất
khẩu
chủ
lực
như
gạo
hiện
nay.
Giải
pháp
được
giáo
sư
Võ
Tòng
Xuân
hiến
kế
là
tới
đây,
về
căn
bản
trong
việc
xuất
khẩu
gạo,
chúng
ta
phải
làm
công
ty
cổ
phần
nông
nghiệp.
Nông
dân
là
cổ
đông
của
công
ty
này.
Công
ty
phải
có
đủ
vùng
nguyên
liệu,
nhà
máy
sấy,
nhà
máy
xay
xát
chế
biến
gạo,
kho
dự
trữ,
nhà
máy
bao
bì,
làm
thương
hiệu…
và
sản
xuất
theo
quy
trình
Viet
GAP.
Tiền
lời
kinh
doanh
hằng
năm
chia
cho
nông
dân.
Như
vậy,
Nghị
định
109
vẫn
thiếu
hàng
loạt
"điều
kiện
đủ"
để
một
quy
định
của
Chính
phủ
thực
sự
đáp
ứng
được
yêu
cầu
cuộc
sống.