Điều
khiến
mọi
người
lo
lắng
là
Ngân
hàng
Trung
ương
có
thể
hiểu
nhầm
các
kết
luận
và
bám
chặt
vào
các
chính
sách
mà
có
thể
bóp
nghẹt
sự
phục
hồi
của
nền
kinh
tế
vốn
đã
yếu
ớt.
Tỷ
lệ
thất
nghiệp
–
con
số
còn
tranh
luận…
Có
một
cuộc
tranh
luận
gay
gắt
ngay
tại
Cục
Dự
trữ
Liên
bang
Mỹ
(Fed)
về
một
vấn
đề
nghe
qua
có
vẻ
đơn
giản:
con
số
thống
kê
tỷ
lệ
thất
nghiệp
có
chính
xác
không?
Các
cuộc
tranh
luận
xuất
phát
từ
một
quan
điểm
thoạt
nghe
có
vẻ
nhàm
chán
nhưng
thực
sự
thú
vị.
Điều
khiến
mọi
người
lo
lắng
là
Ngân
hàng
Trung
ương
có
thể
hiểu
nhầm
các
kết
luận
và
bám
chặt
vào
các
chính
sách
mà
có
thể
bóp
nghẹt
sự
phục
hồi
của
nền
kinh
tế
vốn
đã
yếu
ớt.
Nhưng
trước
tiên,
các
cuộc
tranh
luận
không
phải
bắt
nguồn
từ
vấn
đề
là
liệu
ai
đó
nặn
ra
tỷ
lệ
thất
nghiệp
chính
thức
là
6,7%.
Thay
vào
đó,
nó
là
vấn
đề
phức
tạp
hơn,
đó
là
liệu
tỷ
lệ
đó
có
phản
ánh
chính
xác
hiện
trạng
của
thị
trường
lao
động.
Các
nhà
kinh
tế
hiện
nay
có
hai
lý
thuyết
đối
nghịch
nhau
trong
trường
hợp
này:
Những
người
ủng
hộ
quan
điểm
truyền
thống
về
tỷ
lệ
thất
nghiệp
như
Josh
Bivens
và
Matt
O'Brien
tin
rằng,
hàng
triệu
người
lao
động
không
có
việc
làm
sẽ
bắt
đầu
đọc
quảng
cáo
tuyển
dụng
khi
nền
kinh
tế
phục
hồi.
Tuy
nhiên,
nhiều
ý
kiến
cho
rằng
cách
tính
U3
là
một
sự
giả
dối,
vì
phương
pháp
này
chỉ
tính
những
người
đang
tích
cực
tìm
việc
làm.
Theo
cách
tính
này,
tỷ
lệ
thất
nghiệp
truyền
thống
tại
Mỹ
thậm
chí
có
thể
tăng
lên
như
trong
tháng
2
vừa
qua.
Điều
này
không
có
gì
đáng
báo
động
hoặc
đáng
ngạc
nhiên.
Và
mọi
người
đã
thay
thế
những
khiếm
khuyết
của
biện
pháp
U3
bằng
một
cách
tính
mới
gọi
là
U6,
trong
đó
bao
gồm
cả
những
người
muốn
có
việc
nhưng
vẫn
chưa
đi
tìm
việc.
Lý
thuyết
thứ
hai
do
Evan
Soltas,
Conor
Sen
và
các
nhà
nghiên
cứu
tại
Fed
khởi
xướng.
Họ
tin
rằng
tỷ
lệ
thất
nghiệp
truyền
thống
đại
diện
cho
thị
trường
lao
động
của
nước
đó.
Soltas
đã
tạo
ra
một
bản
đồ
các
điểm
phân
tán,
phản
ánh
cái
gọi
là
tỷ
lệ
những
người
thôi
việc
trong
U3.
Nhiều
nhà
kinh
tế
tin
rằng,
việc
theo
dõi
tỷ
lệ
người
thôi
việc
là
một
biện
pháp
tốt
để
đo
lường
thị
trường
lao
động.
Người
lao
động
thôi
việc
thường
xuyên
có
nghĩa
là
họ
tự
tin
trong
việc
tìm
kiếm
một
việc
làm
mới.
Soltas
thấy
rằng,
người
lao
động
bỏ
công
việc
của
họ
khi
tỷ
lệ
thất
nghiệp
là
6,7%.
Nói
cách
khác,
tỷ
lệ
thất
nghiệp
hiện
tại
của
U3
là
một
sự
phản
ánh
khá
tốt
việc
làm
thế
nào
để
thắt
chặt
thị
trường
lao
động.
Vậy
tại
sao,
sau
đó,
tỷ
lệ
tham
gia
lao
động
của
độ
tuổi
cơ
bản
(25-54
tuổi)
-
một
đơn
vị
cơ
bản
để
đo
quy
mô
lao
động
vẫn
đình
trệ?
Nếu
thị
trường
lao
động
thực
sự
bị
thắt
chặt
thì
những
người
lao
động
ở
độ
tuổi
cơ
bản
có
quay
trở
lại
tham
gia
lực
lượng
lao
động
và
đưa
tỷ
lệ
có
việc
làm
sát
với
mức
trước
khủng
hoảng?
Để
trả
lời
câu
hỏi
này,
Soltas
và
các
đồng
nghiệp
của
ông
chỉ
ra
sự
chênh
lệch
giữa
tỷ
lệ
thất
nghiệp
ngắn
hạn,
vốn
đã
trở
lại
mức
trước
khủng
hoảng
và
tỷ
lệ
thất
nghiệp
dài
hạn
hiện
vẫn
còn
cao
với
lập
luận
cơ
bản
rằng:
Thị
trường
lao
động
đang
phân
đoạn.
Hiệu
quả
thấy
rõ
là
những
công
nhân
và
những
người
thất
nghiệp
ngắn
hạn
đang
đóng
vai
trò
chính
khi
thị
trường
lao
động
bị
thắt
chặt
đáng
kể
và
tỷ
lệ
thất
nghiệp
là
6,7%.
Còn
người
thất
nghiệp
dài
hạn
đã
hoàn
toàn
không
còn
mối
liên
kết
với
thị
trường
lao
động.
Họ
thậm
chí
còn
không
cạnh
tranh
được
với
những
người
thất
nghiệp
ngắn
hạn.
Như
vậy,
tỷ
lệ
tham
gia
lực
lượng
lao
động
đã
bị
kéo
xuống
bởi
những
người
thất
nghiệp
dài
hạn,
trong
khi
bản
thân
lực
lượng
lao
động
đã
thắt
chặt.
Nhưng
lại
là
cơ
sở
chính
sách
tiền
tệ
của
Fed
Những
lý
thuyết
này
có
ý
nghĩa
quan
trọng
đối
với
chính
sách
của
Fed.
Theo
lý
thuyết
đầu
tiên
(U3),
Fed
nên
“đạp
chân
ga”
và
giữ
lãi
suất
ở
mức
0%
để
đưa
người
lao
động
đang
chán
nản
tham
gia
trở
lại
lực
lượng
lao
động.
Điều
này
sẽ
không
dẫn
đến
việc
tăng
lương
và
lạm
phát
quá
nhiều,
bởi
vì
theo
lý
thuyết,
thị
trường
lao
động
vẫn
còn
sự
trì
trệ
đáng
kể.
Nhưng
theo
lý
thuyết
thứ
hai
(U6),
chính
sách
lãi
suất
0%
sẽ
không
giúp
ích
cho
những
người
thất
nghiệp
dài
hạn
tìm
được
công
việc
kể
từ
khi
họ
không
còn
mối
liên
kết
với
lực
lượng
lao
động.
Thay
vào
đó,
nó
sẽ
tiếp
tục
làm
giảm
tỷ
lệ
thất
nghiệp
ngắn
hạn,
tăng
lương
và
tạo
ra
lạm
phát.
Xét
ở
góc
độ
này,
đây
không
chỉ
là
một
cuộc
tranh
luận
chuyên
môn
phức
tạp.
Kết
quả
của
các
cuộc
tranh
cãi
như
vậy
có
thể
giúp
định
hình
các
chính
sách
kinh
tế.
Xét
theo
góc
độ
chính
sách
tiền
tệ
thì
lý
thuyết
này
là
chính
xác
và
cho
dù
đứng
ở
góc
độ
nào
thì
Fed
cũng
nên
đảm
bảo
mình
đang
sẵn
sàng
để
ở
chân
ga.
Cùng
ngẫm
lại
về
hai
lý
thuyết
đó.
Theo
lý
thuyết
Bivens/O'Brien,
khi
nền
kinh
tế
còn
chưa
khởi
sắc
thì
bất
kể
thế
nào
Fed
cũng
cần
phải
sẵn
sàng
“đặt
lên
chân
ga”.
Mặt
khác
nếu
cho
rằng,
lý
thuyết
Soltas
tất
dẫn
đến
tỷ
lệ
tăng
lên
là
một
sai
lầm.
Điều
gì
xảy
ra
nếu
lý
thuyết
của
Soltas
và
cộng
sự
là
chính
xác
và
Fed
quyết
định
giữ
nguyên
lãi
suất
thấp?
Kết
quả
là
lương
mạnh
hơn
và
lạm
phát
vừa
phải.
Đây
là
một
điều
tốt!
Fed
nên
giữ
lãi
suất
ở
mức
0%
một
thời
gian
dài
ngay
cả
khi
có
nguy
cơ
dẫn
đến
lạm
phát
vừa
phải?
Trên
thực
tế
họ
nên
để
điều
này
xảy
ra
để
mức
lương
tăng
lên.
Rất
nhiều
nhà
kinh
tế
như
Paul
Krugman,
Jared
Bernstein,
Dean
Baker,
Cardiff
Garcia
and
Ryan
Avent
đã
kêu
gọi
thực
hiện
các
biện
pháp
này.
Hiện
tại
đây
là
cách
mà
Fed
dự
định
làm.
Fed
cho
biết
sẽ
không
tăng
lãi
suất
cho
đến
khi
tỷ
lệ
thất
nghiệp
giảm
xuống
mức
dưới
6,5%".
Thị
trường
tương
lai
không
mong
đợi
Fed
tăng
lãi
suất
trước
mùa
thu
năm
2015.
Vào
thời
điểm
đó,
tỷ
lệ
thất
nghiệp
có
thể
sẽ
giảm
xuống
dưới
6%.
Điều
đó
tạo
ra
một
rủi
ro
cố
hữu.
Có
thể
thấy
rằng,
sẽ
rất
khó
khăn
cho
Fed
vào
thời
điểm
tháng
1/2015
nếu
tỷ
lệ
thất
nghiệp
đã
giảm
xuống
dưới
6%.
Mặc
dù
mức
lương
không
tăng
thì
Fed
cũng
sẽ
nhận
được
rất
nhiều
lời
kêu
gọi
cả
ở
bên
trong
lẫn
bên
ngoài
yêu
cầu
phải
tăng
lãi
suất
để
ngăn
chặn
lạm
phát.
Điều
này
sẽ
ngăn
chặn
tốc
độ
tăng
lương
trước
khi
nó
bắt
đầu.
Và
đó
là
với
giả
định
rằng
lý
thuyết
thứ
hai
của
thị
trường
lao
động
là
đúng.
Nếu
giả
định
đó
là
sai,
nhưng
Fed
vẫn
sớm
tăng
lãi
suất,
sẽ
đè
bẹp
sự
phục
hồi.
Vì
lý
do
đó,
Fed
nên
đợi
cho
mức
lương
tăng
lên
trước
khi
tăng
lãi
suất.
Như
vậy
Fed
sẽ
còn
phải
chờ
đợi
thêm
một
thời
gian
nữa
trước
khi
quyết
định
có
tăng
lãi
suất
hay
không.
Theo
Vũ
Anh
Tuấn
Thời
báo
Ngân
hàng