Làm
quen
với
khái
niệm
phòng
vệ
thực
phẩm
từ
năm
2010,
nhưng
mãi
đến
năm
2014,
sau
khi
một
loạt
các
sự
cố
về
an
toàn
thực
phẩm
xảy
ra
đối
với
các
doanh
nghiệp
cùng
ngành,
thì
công
ty
Thành
Thành
Công
Tây
Ninh
(TTCS),
công
ty
trong
ngành
mía
đường,
mới
chi
3
tỉ
đồng
để
mua
sắm
các
thiết
bị
cần
thiết
ứng
phó
với
những
nguy
cơ
khủng
hoảng
do
con
người
gây
nên.
Toàn
cảnh
buổi
hội
thảo.
Ảnh:
Đức
Nam
Những
thông
tin
trên
được
đại
diện
của
TTCS
chia
sẻ
tại
Hội
thảo
“Phòng
vệ
thực
phẩm
–
Kinh
nghiệm
thực
hiện
trong
doanh
nghiệp”
do
Doanh
nghiệp
hàng
Việt
Nam
chất
lượng
cao
tổ
chức
vào
cuối
tuần
trước
tại
TP.HCM.
Khái
niệm
phòng
vệ
thực
dùng
chỉ
những
hoạt
động
liên
quan
đến
việc
bảo
vệ
nguồn
cung
cấp
thực
phẩm
chống
lại
những
hành
động
gây
lây
nhiễm
hoặc
can
thiệp
có
tính
toán
và
có
chủ
ý.
Điều
này
đặt
ra
những
biện
pháp
thích
hợp,
cần
thiết
nhằm
hạn
chế
nguồn
cung
cấp
thực
phẩm
có
khả
năng
làm
ô
nhiễm
bằng
các
chất
hóa
học,
sinh
học,
hoặc
các
chất
gây
hại
khác.
Ông
Phạm
Hồng
Dương,
Chủ
tịch
Hội
đồng
quản
trị
TTCS,
cho
rằng
các
doanh
nghiệp
luôn
ý
thức
được
nguy
cơ
và
những
tác
động
từ
các
yếu
tố
phá
hoại
có
chủ
đích.
Tuy
nhiên,
việc
áp
dụng
lại
không
phải
doanh
nghiệp
nào
cũng
sẵn
sàng.
TTCS,
vào
năm
2010,
cùng
với
Vissan,
TH
Milk,
Đại
học
Công
nghệ
Thực
phẩm
TP.HCM,
Đại
học
Cần
Thơ,
là
năm
đơn
vị
đầu
tiên
tham
gia
khóa
học
về
phòng
về
thực
phẩm
theo
chương
trình
của
Cục
An
toàn
Thực
phẩm
và
Dược
phẩm
Hoa
Kỳ
(FDA),
một
chương
trình
bảo
vệ
an
toàn
nguồn
thực
phẩm
đã
được
tổ
chức
hợp
tác
kinh
tế
châu
Á
-
Thái
Bình
Dương
(APEC) thực
hiện
tại
các
quốc
gia
thành
viên
từ
3
năm
trước
đó.
Mía
đường
là
ngành
được
xem
là
rất
dễ
bị
“tổn
thương”
bởi
nguy
cơ
xảy ra
các
vụ
ngộ
độc
thực
phẩm
đến
từ
các
yếu
tố
ngoại
quan
là
rất
cao.
Vì
thế,
theo
ông
Dương,
sau
khi
rà
soát
hiện
trạng
3
nhà
máy,
TTCS
đánh
giá
rằng
nguy
cơ
xảy
ra
các
sự
cố
gây
ô
nhiễm
có
thể
đến
trong
bất
kỳ
thời
điểm
nào
trong
chuỗi
cung
ứng
từ
trang
trại
tới
bàn
ăn,
từ
trồng
trọt,
chế
biến,
phân
phối,
lưu
trữ,
vận
chuyển
đến
bán
lẻ.
Những
đối
tượng
được
xác
lập
dễ
tạo
ra
nguy
cơ
“khủng
bố”
gồm:
Nhóm
công
nhân
bất
mãn,
tổ
dọn
dẹp
vệ
sinh,
nhà
cung
cấp,
lái
xe
tải,
khách
tham
quan
và
không
loại
trừ
các
thành
viên
của
nhóm
khủng
bố
đội
lốt
nhân
viên
từ
phía
đối
thủ
cạnh
tranh.
Để
phòng
ngừa,
công
ty
ban
hành
các
văn
bản,
quy
định
và
áp
dụng
rộng
rãi,
đồng
thời
xây
dựng
kế
hoạch
hành
động
có
tính
cam
kết
lâu
dài
của
lãnh
đạo,
cán
bộ
và
nhân
viên
được
tuyên
truyền
vận
động
thực
hiện
từ
khối
văn
phòng
tới
các
bộ
phận
sản
xuất.
Các
kho
chứa
hàng,
nguyên
liệu
đều
được
gắn
camera
theo
dõi.
Đặc
biệt,
tại
mỗi
vị
trí
quan
trọng,
người
lao
động
sẽ
sử
dụng
thẻ
nhân
viên
và
đồng
phục
khác
nhau.
Những
khu
vực
dễ
tổn
thương
như
khu
nguyên
liệu,
giao
hàng
được
thiết
lập
quy
trình
báo
cáo
cho
quản
lý
xử
lý,
nhất
là đối
với
nhân
viên
bất
mãn,
khách
ra
vào
thường
xuyên
hay
nhân
viên
có
dấu
hiệu
khác
thường
về
sức
khỏe.
Thành
công
đến
từ
nhân
viên
Theo
ông
Dương,
phòng
vệ
thực
phẩm
là
kế
hoạch
phát
triển
bền
vững
của
doanh
nghiệp.
Nếu
doanh
nghiệp
xây
dựng
tốt
kế
hoạch
phòng
vệ,
không
chỉ
giúp
doanh
nghiệm
giảm
thiểu
chi
phí
do
sai
sót,
thiếu
cẩn
trọng
về
an
ninh
mà
còn
giúp
doanh
nghiệp
nhận
ra
rõ
những
điểm
chưa
hiệu
quả
trong
quá
trình
sản
xuất.
Kinh
nghiệm
của
một
đơn
vị
đã
được
“học
và
làm”
như
TTCS
cho
thấy
công
cụ
kiểm
soát
chỉ
là
giải
pháp
tức
thời.
Theo
ông
Dương,
để
quản
trị
được
các
yếu
tố
rủi
ro
từ
chủ
đích
của
con
người,
doanh
nghiệp
phải
lấy
nhân
viên
làm
trọng
tâm.
Nghĩa
là
nhân
viên
phải
là
người
đứng
ở
tuyến
đầu
để
bảo
vệ
thực
phẩm,
bởi
chính
họ
là
những
người
trực
tiếp
tham
gia
các
công
đoạn
nên
dễ
phát
hiện
nguy
cơ
nhất.
“Hơn
ai
hết,
phải
có
sự
quyết
tâm
và
cam
kết
thực
hiện
lâu
dài
của
lãnh
đạo
doanh
nghiệp.
Tính
cam
kết
được
thể
hiện
bằng
những
quyết
định
có
văn
bản
hướng
dẫn
thực
hiện.
Đặc
biệt,
việc
hướng
dẫn
và
nâng
cao
ý
thức
cho
người
lao
động
trước
những
nguy
cơ
khủng
hoảng
chính
là
việc
làm
ưu
tiên.
Nguy
cơ
xảy
ra
các
yếu
tố
về
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm
sẽ
giảm
nếu
như
nhân
viên
ý
thức
được
vai
trò
và
trách
nhiệm
của
họ
trong
việc
bảo
vệ
công
ty
chính
là
bảo
vệ
chính
mình”,
ông
Dương
chia
sẻ.
Ông
Cao
XuânThủy,
Phó
trưởng
khoa
Công
nghệ
thực
phẩm,
Trường
ĐH
Công
nghệ
thực
phẩm
TP.HCM,
cho
rằng,
giữa phòng
vệ
thực
phẩm
và
an
toàn
thực
phẩm
có
nhiều
điểm
khác
biệt.
Trong
khi an
toàn
thực
phẩm
bảo
vệ
các
sản
phẩm
thực
phẩm
từ
những
tác
nhân
gây
ô
nhiễm
không
có
chủ
đích,
thì
phòng
vệ
thực
phẩm
là
bảo
vệ
thực
phẩm
khỏi
những
tác
nhân
gây
ô
nhiễm
có
chủ
đích,
vốn
rất
khó
kiểm
soát
và
khó
dự
đoán.
Theo
ông
Cao
Xuân
Thủy,
nguyên
tắc
quan
trọng
để
doanh
nghiệp
tự
phòng
vệ
chính
mình
chính
là
phải
phòng
vệ
theo
chuỗi
cung
ứng
thực
phẩm,
phòng
vệ
phải
liên
quan
đến
an
toàn
thực
phẩm
và
phải
trên
cơ
sở
việc
xây
dựng
các
hệ
thống
an
toàn
thực
phẩm
vững
chắc
như
ISO
và
HACCP.
Đứng
ở
góc
độ
quản
lý,
Ông
Huỳnh
Lê
Thái
Hòa
–
Chi
Cục
trường
Chi
cục
An
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm
TP.HCM,
cho
rằng,
đã
đến
lúc
cần
luật
hóa
việc
phòng
vệ
thực
phẩm,
nhất
là
trong
bối
cảnh
Việt
Nam
đang
hội
nhập
sâu
rộng
trong
khu
vực.
Tuy
nhiên,
để
làm
được
điều
này,
cần
tiến
tới
xây
dựng
các
tiêu
chí
“chuẩn”
giống
như
những
tiêu
chuẩn
ISO
hay
HACCP.