“Hiện
thực”
của những
con
số
Chẳng
mấy
ai
xa
lạ
với
những
con
số
như:
trong
các
siêu
thị,
80
-
90%
hàng
hoá
là
hàng
Việt
Nam;
Tại
nhiều
địa
phương,
các
mặt
hàng
dệt
may,
da
giầy
có
tới
80%
người
ưa
chuộng;
nhóm
hàng
thực
phẩm,
rau
quả
có
tới
trên
58%
người
tiêu
dùng
ưa
chuộng…;71%
người
tiêu
dùng
trong
nước
đã
tin
tưởng
chất
lượng
hàng
Việt
và
mua
hàng
Việt…
Nhưng
nhìn
vào
thực
tế,
không
ít
người
vẫn
băn
khoăn
liệu
đây
có
phải
những
con
số
thực?
Một
điểm
đáng
mừng
trong
cuộc
vận
động,
hàng
Việt
đã
bắt
đầu
tìm
được
đường
về
thị
trường
nông
thôn
và
nhiều
ngành
hàng
như
dệt
may,
da
giày,
bánh
kẹo,
đồ
uống,
một
số
mặt
hàng
tiêu
dùng…
sản
xuất
trong
nước
đã
dần
chiếm
ưu
thế.
Thế
nhưng
ở
các
địa
phương
vẫn
tràn
ngập
hàng
nhập
khẩu,
đặc
biệt
là
hàng
Trung
Quốc.
Mức
độ
phổ
biến
về
nguồn
hàng,
chất
lượng,
giá
cả
của
hàng
Việt
Nam
và
sự
hiểu
về
những
thiệt
hại
khi
dùng
hàng
giả,
hàng
nhái…còn
thấp.
Thông
tin
từ
bản
nghiên
cứu
thị
trường
mới
nhất
vừa
được
Kantar
Worldpanel
công
bố:
Vinamilk,
Unilever
và
Masan
là
ba
thương
hiệu
được
chọn
mua
nhiều
nhất
Việt
Nam,
cả
ở
thành
thị
và
nông
thôn.
Nhưng
nếu
ở
thị
trường
thành
phố,
Vinamilk
đang
là
nhãn
hàng
số
1
thì
thị
trường
nông
thôn
đang
là
"lãnh
địa"
của
Unilever
đứng
đầu
và
Masan
đứng
thứ
2.
Unilever
đang
sở
hữu
các
thương
hiệu
như
P/S,
Clear,
Lifebuoy,
Omo,
Sunlight
và
Comfort
giữ
vị
thế
vượt
trội
so
với
bất
kỳ
nhà
sản
xuất
nào
với
mức
độ
thâm
nhập
thị
trường
sâu
nhất
99,8%
ở
nông
thôn
và
99,6%
ở
thành
thị.
Dù
dẫn
đầu
ở
thành
thị
nhưng
Vinamilk
vẫn
phải
thua
Unilever
về
độ
thâm
nhập
thị
trường
khi
chỉ
chiếm
97,5%
ở
thành
thị
và
81,7%
ở
nông
thôn.
Vinamilk
là
một
trong
những
doanh
nghiệp
lớn
của
Việt
Nam
còn
phải
“chào
thua”,
vậy
những
doanh
nghiệp
nhỏ
sẽ
ở
đâu
trong
cuộc
chiến
giành
thị
trường?
Cũng
theo
báo
cáo
5
năm
cuộc
vận
động,
hàng
dệt
may
đang
áp
đảo
trên
“sân
nhà”
Việt
Nam,
được
tới
80%
số
người
tiêu
dùng
ưa
chuộng.
Đây
là
quá
trình
nỗ
lực
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam,
liên
tục
đổi
mới,
không
ngừng
mở
rộng
các
kênh
phân
phối
nhằm
tiếp
cận
gần
hơn
với
người
tiêu
dùng
trên
cả
nước. Tuy
nhiên, nhìn
vào
thực
tế,
ngành
công
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam
có
hơn
4.000
doanh
nghiệp, sử dụng
2,5
triệu
công
nhân
và
tạo
ra
kim
ngạch
xuất
khẩu
hơn
20
tỉ
USD
(theo
số
liệu
thống
kê
năm
2013),
nhưng
tỷ
lệ
nội
địa
hóa
rất
thấp, phảiphụ
thuộc
vào
máy
móc
cũng
như
nguyên
phụ
liệu,
bông,
vải,
xơ,
sợi
nhập
khẩu
từ
nước
ngoài.
Theo
ông
Diệp
Thành
Kiệt,
Phó
chủ
tịch
Hội
Dệt
May
Thêu
Đan
TP.HCM
thì
các
doanh
nghiệp
nội
địa,
bao
gồm
cả
doanh
nghiệp
đầu
tư
nước
ngoài
FDI
chỉ
mới
cung
ứng
hơn
30%
các
loại
nguyên
phụ
liệu
cho
ngành
dệt
may,
chủ
yếu
là
phụ
liệu
và
67%
phải
nhập
từ
Trung
Quốc,
Malaysia,
Indonesia,
Ấn
Độ,
Hàn
Quốc,
Đài
Loan,
Brazil…
Trong
đó,
Trung
Quốc
chiếm
tỷ
lệ
26%.
Nhưng
nếu
tính
cả
những
vật
tư
như
hóa
chất
cơ
bản
cho
dệt,
nhuộm
hay
phụ
tùng
thay
thế
thì
hằng
năm
mức
tổng
nhập
chính
thức
từ
nước
này
là
40%.
Do
vậy,
người
ta
dễ
thấy
hàng
Trung
Quốc
có
mặt
ở
hầu
hết
các
khâu
trong
quá
trình
sản
xuất
của
hàng
dệt
may.
Vậy
khi
nào
người
tiêu
dùng
mới
được
sử
dụng
những
sản
phẩm
“made
in
Việt
Nam”
thực
sự?
Khi
nào
công
nghiệp
dệt
may
không
còn
là
một
nền
công
nghiệp
gia
công?
…Cho
đến
nông
sản
Theo
báo
cáo
của
cuộc
vận
động,
người
tiêu
dùng
Việt
Nam
nói
chung
ngày
càng
đánh
giá
cao
hàng
Việt
Nam.
Tại
nhiều
địa
phương,
nhóm
hàng
thực
phẩm,
rau
quả
có
tới
trên
58%
người
tiêu
dùng
ưa
chuộng…
Liệu
đây
có
phải
là
nghịch
lý?
Thực
tế
hiện
nay
hoa
quả
nhập
ngoại
ngày
càng
được
ưa
thích,
người
tiêu
dùng
sẵn
sàng
bỏ
ra
tiền
triệu
để
mua
hoa
quả
nhập
khẩu.
Trong
khi
đó,
trái
cây
Việt
Nam
vào
mùa
thu
hoạch
có
giả
“rẻ
như
bèo”.
Chỉ
mất
10.000
đồng
người
dân
có
thể
“ăn
no”
với
cam
10.000
đồng/3kg,
thanh
long
ruột
đỏ
10.000
đồng/4kg,
vải
chỉ
4.000
–
5.000đồng/kg.
Người
tiêu
dùng
đang
quay
lưng
với
các
loại
trái
cây
trong
nước,
dù
rẻ
và nguồn
gốc
rõ
ràng.
Nông
sản
là
một
trong
những
thế
mạnh
của
kinh
tế
nông
nghiệp
Việt
Nam.
Đây
là
việc
ai
cũng
biết.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
tiêu
thụ
nông
sản
ra
sao?
Phát
triển
thị
trường
thế
nào
để
đời
sống
bà
con
nông
dân
được
hưởng
lợi
từ
sản
xuất
nông
sản...
lại
chưa
được
thực
sự
quan
tâm.
Việc
tiêu
thụ
vải
của
mùa
thu
hoạch
năm
nay
là
một
điển
hình.
Vừa
rồi
lãnh
đạo
Bộ
Công
thương
có
nói:
Nếu
mỗi
người
Việt
Nam
ủng
hộ
nông
dân
Việt
Nam
bằng
cách
ăn
một
trái
vải
thì
sẽ
góp
phần
giúp
quả
vải
tiêu
thụ
tốt. Đây là
điều
cần
thiết
nhưngchỉ
là
giải
quyết theo
kiểu
tình
thế,
đến
mùa
gì
yêu
cầu
người
dân
ăn
trái
ấy.
Hay
nói
cách
khác,
chờ
đến
vụ
mùa
gì
thu
hoạch
rồi
mới
bàn
giải
pháp
tiêu
thụ
cho
vụ
mùa
đó.
Vấn
đề
tiêu
thụ
nông
sản,
phát
triển
thị
trường
thế
nào
để
đời
sống
bà
con
nông
dân
được
hưởng
lợi
từ
sản
xuất
nông
sản...
chưa
được
thực
sự
quan
tâm.
Hàng
Việt
là
"hàng
Việt"
nào?
Một
lần
nữa
nhìn
lại,
với
con
số
80
-90%
hàng
hóa
trong
siêu
thị
là
hàng
Việt.
Với
khái
niệm
hàng
Việt
là
hàng
Made
in
Việt
Nam,
con
số
này
có
lẽ
không
sai,
khi
mà
hầu
hết
trên
quầy
kệ
của
các
siêu
thị
là
các
sản
phẩm
OMO,
Tide,
Comfort,
Ajingon,
Knorr...
Còn
với
những
doanh
nghiệp
Việt,
câu
chuyện
Minh
Long
I
rút
hàng
để
phản
đối
chính
sách
giá
của
siêu
thị,
và
kéo
theo
đó
là
hàng
loạt
doanh
nghiệp
trong
nước
đều
lên
tiếng
than
thở,
"kể
xấu"
sự
chèn
ép
của
hệ
thống
này
(và
đề
nghị
được
giấu
tên)
đủ
cho
thấy
có
một
thực
tế
khác
về
"hàng
Việt"
trong
siêu
thị
chưa
được
thống
kê.
Có
lẽ,
đã
đến
lúc
cần
nhìn
lại
khái
niệm
"hàng
Việt"
trong
cuộc
vận
động
này.
"Hàng
Việt"
nào
là
cái
cần
được
ưu
tiên
và
ủng
hộ?
Phải
chăng,
đó
là
những
OMO,
Comfort,
Knorr
hay
Nestle.
Khánh
Vân