Xuất
ít,
nhập
nhiều
Theo
VCCI,
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế
là
hướng
đi
đúng,
hợp
quy
luật
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam,
với
nguyên
tắc
quan
trọng
là
đa
dạng
hóa
nhưng
phải
gắn
liền
với
tự
chủ
kinh
tế,
bảo
đảm
phát
triển
bền
vững,
ổn
định.
Mặc
dù
vậy,
vì
nhiều
nguyên
nhân
mà
một
số
ngành
kinh
tế
của
ta
đang
có
sự
phụ
thuộc
quá
lớn
vào
một
thị
trường
nhất
định.
Thực
tế
này
càng
"nóng"
và
trở
nên
cấp
bách
hơn,
đòi
hỏi
được
nhận
định
một
cách
tỉnh
táo,
thẳng
thắn
trong
bối
cảnh
căng
thẳng
tại
Biển
Đông
hiện
nay.
Cụ
thể,
hơn
10
năm
qua,
quan
hệ
kinh
tế,
tập
trung
vào
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
song
phương
giữa
Việt
Nam
và
Trung
Quốc
tăng
liên
tục,
với
tốc
độ
rất
cao.
Song,
đáng
lo
ngại
là
Việt
Nam
luôn
bị
thâm
hụt
trong
quan
hệ
thương
mại,
với
mức
nhập
siêu
tăng
ở
mức
"rất
đáng
lo
ngại
và
hầu
như
chưa
thể
kiểm
soát",
gây
ra
những
hệ
lụy
khó
lường.
Nếu
lấy
năm
2000
làm
mốc
so
sánh,
Việt
Nam
xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc
1,5
tỷ
USD
giá
trị
hàng
hóa,
đồng
thời
nhập
khẩu
hàng
hóa
trị
giá
1,4
tỷ
USD
-
tức
là
gần
như
ở
mức
tương
đương
nhau.
Nhưng
sau
đó
cán
cân
thương
mại
đã
thay
đổi
nhanh
chóng,
khi
kim
ngạch
xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc
năm
2006
đạt
3,1
tỷ
USD
nhưng
kim
ngạch
nhập
khẩu
lại
tăng
lên
7,4
tỷ
USD;
đến
năm
2013
các
con
số
tương
ứng
tiếp
tục
"lệch"
hơn
khi
kim
ngạch
xuất
khẩu
là
13,3
tỷ
USD
nhưng
kim
ngạch
nhập
khẩu
tăng
tới
37
tỷ
USD.
Những
năm
gần
đây
Việt
Nam
nhập
khẩu
rất
nhiều
chủng
loại
hàng
hóa
từ
Trung
Quốc,
gồm
máy
móc,
thiết
bị
công
nghiệp;
vật
tư;
nguyên
phụ
liệu
phục
vụ
sản
xuất
hàng
dệt
may,
da
giày;
hàng
tiêu
dùng;
cây
và
con
giống…
Các
chuyên
gia
cho
rằng,
tâm
lý
dễ
dãi
trong
lựa
chọn
hàng
hóa
nhập
khẩu,
với
chất
lượng
trung
bình
thấp
nhưng
thiếu
ổn
định,
có
khi
không
rõ
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật,
đặc
biệt
là
giá
rẻ
từ
Trung
Quốc
đã
từng
bước
tạo
ấn
tượng
đối
với
DN
Việt.
Mặt
khác,
thói
quen
tiêu
dùng
và
sự
thuận
tiện
về
vận
tải
cũng
khiến
nhiều
đơn
vị
trong
nước
muốn
nhập
hàng
Trung
Quốc.
Thực
tế
này
đặt
ra
vấn
đề
là,
qua
thời
gian
nhiều
đơn
vị
sẽ
hình
thành
thói
quen
"thích"
nhập
hàng
Trung
Quốc
và
như
vậy
sẽ
vô
tình
tự
đẩy
mình
vào
tình
huống
phụ
thuộc
vào
một
nguồn
cung
ứng
cố
định
và
khó
đối
phó
khi
có
sự
thay
đổi
hay
bất
trắc
xảy
ra.
|
Tăng
tỷ
lệ
nội
địa
hóa
sẽ
giúp
ngành
công
nghiệp
Việt
Nam
phát
triển
ổn
định,
bền
vững
và
không
bị
phụ
thuộc
vào
quốc
gia
khác.
Ảnh:
Khánh
Nguyên
|
Thiệt
đơn,
thiệt
kép
Một
thực
tế
đáng
lo
ngại,
có
tính
chất
"sự
đã
rồi"
là
việc
rất
nhiều
DN,
nhà
thầu
Trung
Quốc
đã
và
đang
đảm
nhận
vai
trò
nhà
thầu
thi
công
các
công
trình,
dự
án
quan
trọng
ở
Việt
Nam.
Theo
ông
Nguyễn
Văn
Thụ,
Chủ
tịch
Hiệp
hội
DN
cơ
khí
Việt
Nam,
nhiều
năm
qua,
do
cơ
chế
đấu
thầu
lựa
chọn
nhà
thầu
dựa
vào
tiêu
chí
giá
thấp
nên
dẫn
đến
thực
trạng
DN
Trung
Quốc
trúng
thầu
xây
dựng
hàng
loạt
dự
án,
công
trình
công
nghiệp
và
giao
thông
ở
nước
ta,
cụ
thể
gồm
5/6
nhà
máy
hóa
chất,
2
nhà
máy
chế
biến
khoáng
sản,
49/62
nhà
máy
xi
măng.
Trong
số
22
dự
án
xây
dựng
nhà
máy
nhiệt
điện
thì
DN
Trung
Quốc
làm
tổng
thầu
16
dự
án.
Mặc
dù
vậy,
có
không
ít
DN
Trung
Quốc
đã
không
làm
tốt
vai
trò
nhà
thầu
của
mình,
bị
chậm
tiến
độ
cũng
như
chưa
bảo
đảm
chất
lượng.
Ông
Thụ
cho
biết,
một
số
dự
án
chậm
tiến
độ
từ
3
tháng
đến
3
năm,
chất
lượng
thiết
bị
không
đồng
đều,
có
khi
bị
thay
thế
không
rõ
nguyên
nhân.
Thậm
chí,
có
trường
hợp
tiêu
chuẩn
vật
liệu
xây
dựng
công
trình
bị
thay
đổi,
thay
đổi
cả
nhà
cung
cấp
hoặc
đội
giá
hợp
đồng…
Đáng
nói
là
nhiều
nhà
thầu
Trung
Quốc
đã
đem
toàn
bộ
vật
tư,
phụ
tùng
từ
trong
nước
sang
Việt
Nam
mặc
dù
đó
là
những
sản
phẩm
có
thể
chế
tạo
ngay
tại
Việt
Nam,
làm
mất
cơ
hội
sản
xuất
và
tham
gia
thị
trường
của
DN
nội.
Bên
cạnh
đó,
phần
lớn
nhà
thầu
Trung
Quốc
đều
hạn
chế
việc
sử
dụng
nhà
thầu
phụ
Việt
Nam.
Việc
sử
dụng
nguyên
vật
liệu
và
máy
móc,
thiết
bị
đồng
bộ
từ
Trung
Quốc
của
nhà
thầu
cũng
làm
tăng
mức
nhập
siêu
của
Việt
Nam
trong
giao
thương
với
Trung
Quốc.
Dư
luận
còn
quan
ngại
hơn
khi
nhà
thầu
Trung
Quốc
chủ
động
đưa
vào
sử
dụng
gần
như
toàn
bộ
chuyên
gia,
lao
động
phổ
thông
mà
không
thuê
công
nhân
tại
chỗ,
gây
mất
cơ
hội
việc
làm
và
thu
nhập
đối
với
người
dân
tại
những
địa
phương
có
dự
án
triển
khai.
DN
của
ta
khi
bị
mất
cơ
hội
tham
gia
nhận
thầu
sẽ
lãng
phí
nguồn
lực
bởi
máy
móc,
thiết
bị
"đắp
chiếu";
năng
lực
cán
bộ
bị
mai
một;
nhất
là
ảnh
hưởng
đến
khả
năng
chế
tạo
thiết
bị
so
với
yêu
cầu
vươn
lên,
bứt
phá
trong
quá
trình
thực
hiện
CNH-HĐH
đất
nước.
Giải
pháp
khắc
phục
Đại
diện
một
số
hiệp
hội
DN
Việt
Nam
đã
kiến
nghị
Chính
phủ
tăng
cường
giám
sát,
đánh
giá
toàn
diện
các
dự
án
quan
trọng
do
nhà
thầu
Trung
Quốc
thực
hiện
để
tăng
cường
tính
chủ
động
trong
quản
lý
cũng
như
tạo
điều
kiện
cho
DN
nội.
Vấn
đề
ở
đây
là
chủ
động
thiết
lập
sự
công
bằng
và
cơ
hội
cạnh
tranh
bình
đẳng
giữa
các
DN.
Bên
cạnh
đó,
cộng
đồng
DN
Việt
mong
muốn
Nhà
nước
có
cơ
chế
bắt
buộc
đối
với
chủ
đầu
tư
về
tỷ
lệ
sử
dụng
nguyên
liệu,
thiết
bị
do
đơn
vị
trong
nước
sản
xuất
một
cách
hợp
lý;
từ
đó
kích
thích
công
nghiệp
phụ
trợ
phát
triển
và
kết
hợp
nâng
cao
tỷ
lệ
nội
địa
hóa
các
loại
sản
phẩm.
Các
chuyên
gia
kinh
tế
nhận
định,
Việt
Nam
có
vị
trí
địa
chính
trị
quan
trọng,
dễ
dàng
trong
giao
thương
với
các
nước
và
cần
tận
dụng
vị
trí
bên
cạnh
Trung
Quốc
-
thị
trường
lớn
nhất
thế
giới
để
phát
huy
những
lợi
thế,
điểm
mạnh
của
mình.
Vấn
đề
là
mỗi
đơn
vị
cần
xác
lập
hướng
đi
và
sản
phẩm
phù
hợp,
có
chất
lượng
và
sức
cạnh
tranh
cao
để
xuất
khẩu
sang
thị
trường
Trung
Quốc.
Về
lâu
dài,
DN
Việt
phải
tìm
được
cách
tham
gia
vào
chuỗi
sản
xuất
toàn
cầu
trên
cơ
sở
nâng
cao
hàm
lượng
chất
xám
trong
sản
phẩm
và
hiệu
quả
quản
trị
DN.
Nếu
DN
Việt
tạo
được
sự
khác
biệt
về
sản
phẩm
tức
là
sẽ
đứng
vững
trong
quan
hệ
với
các
đối
tác.
Các
chuyên
gia
cũng
khuyến
cáo,
DN
cần
tự
giảm
tình
trạng
phụ
thuộc
vào
một
thị
trường
và
sẵn
sàng
tìm
thị
trường
khác
thay
thế.
Hiện,
Việt
Nam
sắp
kết
thúc
đàm
phán
Hiệp
định
Thương
mại
tự
do
với
EU
và
Hiệp
định
đối
tác
xuyên
Thái
Bình
Dương
và
DN
sẵn
sàng
xuất,
nhập
khẩu
với
các
đối
tác
trong
khuôn
khổ
các
hiệp
định
này.
Mặt
khác,
với
vị
trí
của
nhà
nhập
khẩu
thì
DN
Việt
cũng
nên
biết
cách
bảo
vệ
mình,
phát
huy
hết
quyền
hạn
của
bên
mua
hàng
để
phòng
tránh
tình
trạng
bị
ép
giá,
làm
giá
từ
đối
tác
quốc
tế
nói
chung.
Các
cơ
quan
chức
năng
cần
đẩy
mạnh
tuyên
truyền,
nêu
cao
tinh
thần
yêu
nước
của
các
tầng
lớp
nhân
dân
thông
qua
việc
sử
dụng
hàng
nội,
đồng
thời
thúc
đẩy
hun
đúc
ý
chí
vươn
lên
của
cộng
đồng
DN
trong
quá
trình
hội
nhập.