Tiến sĩ Hans-Paul Bürkner, Chủ tịch BCG
Vai trò của các ngân hàng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp là rất quan trọng. Ông đánh giá thế nào về quá trình cải tổ của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua?
Dù đã có những hành động cụ thể, nhưng tôi cho rằng phải đến cuối thập kỷ này Việt Nam mới có thể hoàn thành cải tổ hệ thống ngân hàng. Hãy nhìn sang châu Âu, các ngân hàng ở đấy vẫn phải tiếp tục dọn dẹp những vấn đề từ khủng hoảng năm 2008.
Vấn
đề
mà
các
ngân
hàng
Việt
Nam
gặp
phải
là
hệ
thống
phòng
ngừa
rủi
ro
chưa
tốt.
Sở
hữu
chéo
cũng
là
một
vấn
đề.
Các
ngân
hàng
phải
cho
vay
đúng
người
cần
vay
chứ
không
phải
vì
các
mối
quan
hệ.
Cũng
phải
thay
đổi
quan
điểm
cho
rằng
khi
doanh
nghiệp
nhà
nước
vay
thì
sẽ
an
toàn
tuyệt
đối.
Thay
vào
đó,
hãy
chú
ý
nhiều
hơn
đến
nhóm
các
doanh
nghiệp
vừa
và
nhỏ,
những
đơn
vị
còn
phụ
thuộc
nhiều
vào
thị
trường
vốn
không
chính
thống.
Trước mắt, Việt Nam vẫn phải đối mặt với khó khăn. Ông có lạc quan về triển vọng phát triển của doanh nghiệp Việt trong bối cảnh này?
Qua
tiếp
xúc,
tôi
nhận
thấy
các
công
ty
đầu
ngành
của
Việt
Nam
đều
có
những
kế
hoạch
lớn.
Tất
cả
đều
mong
muốn
nâng
cao
năng
suất,
hiệu
quả
kinh
doanh
và
có
khả
năng
tài
chính
để
đầu
tư
lớn.
Tôi
rất
ấn
tượng
với
cách
nghĩ
của
nhiều
lãnh
đạo
doanh
nghiệp
Việt.
Họ
không
chỉ
tham
vọng
mà
còn
có
tinh
thần
làm
việc
đáng
nể.
Tất
nhiên
các
doanh
nghiệp
vẫn
còn
nhiều
điều
cần
học
hỏi,
nhưng
đó
là
điều
hoàn
toàn
bình
thường.
Tuy
nhiên,
điều
khiến
tôi
lạc
quan
nhất
về
thị
trường
đang
phát
triển
như
Việt
Nam
nằm
ở
chỗ
con
người
luôn
đặt
ra
nhiều
mục
tiêu
cho
bản
thân
cũng
như
cho
con
cái,
tất
cả
đều
hướng
đến
một
tương
lai
tốt
đẹp
hơn.
Trái
ngược
với
tình
cảnh
ở
những
nước
phát
triển,
nơi
mà
con
người
tỏ
ra
hài
lòng
với
cuộc
sống
hiện
tại,
người
Việt
có
ý
chí
phấn
đấu
mạnh
mẽ.
Đó
là
yếu
tố
quan
trọng
nhất
giúp
thành
công.
Một
vấn
đề
thường
gặp
ở
các
doanh
nghiệp
Việt
là
sau
khi
thế
hệ
đầu
sáng
lập
và
phát
triển
công
ty,
thế
hệ
thứ
2
hoặc
3
lại
không
thể
tiếp
nối
được.
Ông
nghĩ
sao
về
chuyện
này?
Câu chuyện tìm người kế nhiệm hiển nhiên là không đơn giản. Tuy nhiên, chuyện này không liên quan đến khả năng của thế hệ thứ 2 hay thứ 3. Chúng ta đều biết rằng thế hệ trẻ càng được đào tạo đầy đủ và chuyên sâu hơn và tôi tin rằng họ cũng có tham vọng của riêng mình. Thực sự, tôi không lo lắng về thế hệ trẻ của Việt Nam.
Tôi từng được đọc một bài viết nói về Julius Caesar. Ngay từ thời xa xưa, ông ta đã than phiền về việc thế hệ trẻ không có khả năng, thiếu siêng năng và chỉ biết hưởng thụ. Đấy là một suy nghĩ rất thường gặp, nhưng hầu hết trong các trường hợp đều không đúng. Tôi không tin rằng thế hệ sau kém hơn thế hệ trước. Nếu thực sự là vậy thì thế giới đã chẳng phát triển đến ngày hôm nay. Dù không dễ dàng, nhưng các doanh nghiệp Việt sẽ tìm ra cách vượt qua thử thách.
Các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
được
làm
quen
với
khái
niệm
tư
vấn
chiến
lược
cách
đây
chưa
lâu
và
vẫn
còn
một
bộ
phận
không
mặn
mà
với
ý
tưởng
mời
nhà
tư
vấn.
Quan
điểm
của
ông
về
vấn
đề
này
như
thế
nào?
Tôi
cho
rằng
điều
này
phụ
thuộc
nhiều
vào
quan
điểm
cá
nhân.
Một
số
người
có
thể
chào
đón
đơn
vị
tư
vấn,
số
khác
thì
không.
Tuy
nhiên,
khái
niệm
tư
vấn
vẫn
chưa
thực
sự
phổ
biến
tại
Việt
Nam
vì
các
doanh
nghiệp
chưa
có
cơ
hội
tiếp
xúc
nhiều.
Năm
1980,
ngành
tư
vấn
ở
Đức
cũng
tương
tự
như
Việt
Nam
hiện
tại.
Các
quốc
gia
đang
phát
triển
ở
châu
Á
mới
biết
đến
tư
vấn
gần
đây,
nên
sẽ
cần
nhiều
thời
gian
trải
nghiệm
để
các
doanh
nghiệp
hiểu
được
lợi
ích.
Khi
mọi
người
đã
nhận
ra
vai
trò
hữu
ích
của
tư
vấn
thì
họ
sẽ
chủ
động
tìm
đến
chúng
tôi.
Có một điều thú vị là tại Việt Nam, đa số khách hàng BCG đang làm việc đều là các đơn vị nội địa. Dù cũng có khách hàng đa quốc gia, nhưng doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư của Việt Nam vẫn chiếm đa số. Hiện các công ty nước ngoài chỉ chiếm khoảng 25-30% lượng khách hàng của BCG tại đây.
Ở những quốc gia BCG đã có Sau những va chạm gần đây với Trung Quốc, có ý kiến cho rằng Việt Nam cần thoát khỏi tầm ảnh hưởng kinh tế của nước láng giềng. Ông nhận xét thế nào về tình hình hiện nay?
Trước hết, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần toàn bộ biển Đông là không chấp nhận được. Mọi việc phải được phân xử theo luật pháp và công ước quốc tế. Nhưng sự cố xảy ra ở các nhà máy của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam cũng không đúng. Chúng ta phải đảm bảo được an toàn và quyền lợi của nhà đầu tư trong bất kỳ trường hợp nào.
Giữa Việt Nam và Trung Quốc tuy có mối quan hệ kinh tế rất chặt chẽ, nhưng Việt Nam cũng là đối thủ kinh tế của Trung Quốc trong khá nhiều trường hợp. Nhiều công ty đa quốc gia đã di chuyển nhà máy từ Trung Quốc sang Việt Nam. Năng lực sản xuất của các nhà máy may mặc và điện tử tại Việt Nam cũng rất tốt nếu đem so với Trung Quốc.
Nếu muốn giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý đến những thị trường lân cận trong khu vực Đông Nam Á hơn nữa. Tuy nhiên, vị trí địa lý của Việt Nam vẫn nằm kề với Trung Quốc cho nên quốc gia này vẫn là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của các bạn. Đó là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi, vì vậy doanh nghiệp cần cân nhắc thận trọng khi đưa ra các quyết định.
Theo Hà Nguyễn (Nhịp Cầu Đầu Tư)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 182
•Máy chủ tìm kiếm : 25
•Khách viếng thăm : 157
Hôm nay : 64883
Tháng hiện tại : 909260
Tổng lượt truy cập : 44276945