Nếu
đặt
ra
tiêu
chí
chất
lượng
tài
sản
thì
có
rất
nhiều
ngân
hàng
có
chất
lượng
tài
sản
ở
mức
cần
phải
xem
xét
lại
một
cách
nghiêm
túc.
Xoay
quanh
câu
chuyện
tái
cấu
trúc,
sáp
nhập
các
NHTM
được
nhắc
nhiều
trong
thời
gian
trở
lại
đây
Ts.
Lê
Xuân
Nghĩa
-
Phó
chủ
tịch
Ủy
ban
Giám
sát
tài
chính
Quốc
gia
cho
rằng,
có
4
lý
do
chính
để
Việt
Nam
phải
tái
cơ
cấu
lại
hệ
thống
ngân
hàng.
Thứ
nhất,
không
phải
vì
quy
mô
ngân
hàng
quá
nhỏ
mà
là
do
chất
lượng
tài
sản
của
các
hệ
thống
ngân
hàng
yếu,
đặc
biệt
là
năng
lực
quản
trị
rủi
ro
và
quản
trị
doanh
nghiệp
kém.
Nếu
đặt
ra
tiêu
chí
chất
lượng
tài
sản
thì
có
rất
nhiều
ngân
hàng
có
chất
lượng
tài
sản
ở
mức
cần
phải
xem
xét
lại
một
cách
nghiêm
túc.
Nhiều
ngân
hàng
gọi
là
nhỏ
nhưng
so
với
những
ngân
hàng
nhỏ
của
Mỹ
thì
vẫn
là
hạng
trung
bình.
Ví
dụ
ở
Mỹ,
ngân
hàng
nhỏ
của
nó
có
vốn
tự
có
chỉ
từ
10
–
15
triệu
USD,
ở
Việt
Nam
thì
vốn
tự
có
của
những
ngân
hàng
nhỏ
này
cũng
xấp
xỉ
100
triệu
USD,
nên
không
thể
nào
gọi
nó
là
nhỏ
được.
Thứ
hai,
nhiều
ngân
hàng
vấn
đề
quản
trị
doanh
nghiệp
rất
yếu
và
có
1
xu
thế,
cổ
đông
lớn
không
quan
tâm
tới
lợi
ích
cộng
đồng
và
những
cổ
đông
nhỏ,
chỉ
quan
tâm
tới
lợi
ích
của
chính
mình,
cho
nên
họ
biến
tướng
rất
nhiều
để
cho
vay
những
lĩnh
vực
rất
nguy
hiểm
đối
với
ngân
hàng
hoặc
cho
vay
chéo
chính
những
công
ty
con
của
mình.
Mặc
dù
NHNN
có
quy
định
rất
chặt
chẽ
trong
việc
cho
vay
với
doanh
nghiệp
là
cổ
đông
nhưng
họ
lại
lách
bằng
cách
nào
đó
để
không
có
tên
trong
danh
sách
cổ
đông
ở
những
ngân
hàng
đấy,
mượn
người
khác
đứng
tên.
Làm
cho
rủi
ro
của
những
ngân
hàng
này
cả
về
ngắn
hạn
lẫn
dài
hạn
là
rất
lớn.
Thứ
ba,
ngay
cả
vấn
đề
trích
lập
dự
phòng
rủi
ro
của
các
ngân
hàng
Việt
Nam
không
đủ
để
bù
đắp
rủi
ro
nói
chung
và
rủi
ro
riêng
cho
từng
dự
án
của
một
ngân
hàng.
Điều
đó
làm
cho
lợi
nhuận
của
các
ngân
hàng
này
là
không
đúng,
hạch
toán
chưa
chính
xác.
Nếu
họ
trích
lập
dự
phòng
đầy
đủ
thì
lợi
nhuận
sẽ
thấp
hơn
nhiều.
Thứ
tư,
ngân
hàng
loại
nhỏ
thường
mới
tăng
vốn
và
tăng
vốn
theo
quy
định,
vì
vậy
nhu
cầu
mở
rộng
mạng
lưới,
tổng
tài
sản
tương
ứng.
rủi
ro
lớn
của
những
ngân
hàng
này
là
cho
dù
trụ
sở
chính
đặt
ở
đâu
thì
cũng
tập
trung
ở
những
đô
thị
lớn
để
mở
chi
nhánh,
phòng
giao
dịch.
Điều
này
làm
cho
mức
độ
cạnh
tranh
rất
khốc
liệt
và
không
lành
mạnh.
Vậy
nếu
hiểu
tái
cấu
trúc
đồng
nghĩa
với
việc
sáp
nhập
hay
giải
thể
bớt
ngân
hàng,
có
đúng
không,
thưa
ông?
Sau
khi
tiến
hành
tất
cả
các
cấu
phần
của
tài
cấu
trúc
thì
một
số
ngân
hàng
thương
mại
sẽ
tự
thấy
rằng
mình
không
đủ
khả
năng
tồn
tại
lâu
dài
hoặc
là
Chính
phủ
và
NHNN
thấy
rằng
một
số
NH
không
đủ
khả
năng
đảm
bảo
cho
hệ
thống
ngân
hàng
an
toàn
thì
họ
phải
tính
đến
chuyện
sáp
nhập,
giải
thể,
thậm
chí
là
cho
phá
sản.
Việc
giảm
bớt
số
lượng
ngân
hàng
là
kết
cục
của
bất
kỳ
một
cuộc
tái
cấu
trúc
nào
chứ
không
phải
là
cuộc
tái
cấu
trúc
này
chỉ
để
loại
bỏ
bớt
số
lượng
các
ngân
hàng
nhỏ.
Đấy
là
điều
phi
lý.
Tuy
nhiên,
khi
thông
tin
về
cần
phải
sáp
nhập
và
giải
thể
thì
nhiều
cặp
mắt
đang
dồn
vào
những
NHTM
nhỏ.
Ông
có
cho
rằng
những
NH
này
sẽ
là
những
đối
tượng
đầu
tiên
được
“nhắm”
đến
không?
“Người
nhỏ
vác
được
50kg,
người
lớn
vác
được
100kg.
Người
to
mà
bệnh
tật
thì
không
vác
được
100kg
mà
có
thể
sụp
đổ
bất
kỳ
lúc
nào.
Người
nhỏ
mà
không
bệnh
tật
thì
có
thể
không
việc
gì.
Ngân
hàng
cũng
vậy.
Vì
vậy,
tốt
nhất
là
Việt
Nam
có
được
những
ngân
hàng
lớn,
khỏe
mạnh;
tốt
thứ
nhì
là
những
ngân
hàng
nhỏ
cũng
khỏe
mạnh”
-
T.S
Lê
Xuân
Nghĩa
nói |
Tôi
cho
rằng,
tái
cấu
trúc
thì
không
hẳn
là
nhắm
vào
các
NHTM
nhỏ
mà
nên
tập
trung
vào
những
ngân
hàng
nào
có
tỷ
lệ
nợ
xấu
vượt
quá
5%
thì
phải
thuộc
diện
phải
tập
trung
tái
cấu
trúc
lại
tài
chính
và
các
định
chế
quản
lý
tài
chính
như
quản
trị
rủi
ro.
Những
ngân
hàng
nhỏ
mà
khỏe
thì
sao
lại
phải
bỏ
bởi
bản
thân
các
ngân
hàng
này
có
những
phân
khúc
khách
hàng
của
họ.
Còn
nếu
những
ngân
hàng
này
yếu
thì
buộc
phải
giải
thế,
buộc
phải
phá
sản
là
đương
nhiên.
“Phá
sản”
là
một
từ
rất
nhạy
cảm
đối
với
lĩnh
vực
này,
đặc
biệt
nó
sẽ
tác
động
mạnh
đến
tâm
lý
người
gửi
tiền.
Ông
có
cho
rằng
việc
cho
một
NH
phá
sản
hay
sáp
nhập
sẽ
là
dễ
dàng
vào
thời
điểm
này
không?
Đúng
thế,
thông
tin
về
ngân
hàng
bị
mất
thanh
khoản
hay
phá
sản
sẽ
tác
động
mạnh
và
tác
động
dây
chuyền
đến
tâm
lý
người
gửi
tiền.
Hơn
nữa,
vấn
đề
sáp
nhập,
giải
thể,
phá
sản,
mua
đi
bán
lại
thì
khung
pháp
lý
của
việt
Nam
hiện
nay
cũng
chưa
thật
rõ
ràng.
Chúng
ta
mới
có
kinh
nghiệm
là
dùng
ngân
hàng
lớn
thôn
tính
ngân
hàng
nhỏ
vì
đã
làm
trong
đợt
tái
cấu
trúc
lần
trước.
Đợt
tái
cấu
trúc
lần
trước
thì
số
lượng
ngân
hàng
bị
xóa
tên
khỏi
danh
sách
NHTM
khoảng
14
–
16
ngân
hàng.
Vậy
theo
ông,
nếu
thực
hiện
tái
cấu
trúc
lần
này
những
vấn
đề
gì
sẽ
được
đặt
ra?
Chúng
tôi
có
kiến
nghị,
tái
cấu
trúc
phải
chiểu
theo
Luật
của
NHNN,
Luật
các
tổ
chức
tín
dụng
để
thực
hiện.
Chúng
ta
phải
xác
định
lại
toàn
bộ
tỉ
lệ
chiếm
hữu
cổ
phần
của
một
cổ
đông
trong
ngân
hàng,
luật
mới
quy
định
5%
và
các
ngân
hàng
phải
đưa
về
đúng
tỷ
lệ
đó.
Nguồn
tiền
góp
vốn
vào
ngân
hàng
cũng
phải
truy
đến
cùng
để
xem
nguồn
tiền
có
sạch
không
và
có
phải
vốn
thật
sự
của
doanh
nghiệp
đó
không
hay
vốn
ảo,
núp
dưới
hình
thức
phát
hành
trái
phiếu
cho
các
công
ty
con
của
mình,
hay
đá
chéo
vốn
cho
nhau…
Ngoài
ra,
vấn
đề
về
khái
niệm
quản
trị
doanh
nghiệp
theo
chuẩn
OECD
(Tổ
chức
hợp
tác
và
phát
triển
kinh
tế)
cũng
được
đặt
ra:
tỷ
lệ
vốn
góp
của
một
cổ
đông
cá
nhân
là
bao
nhiêu,
cổ
đông
doanh
nghiệp
tối
đa
la
bao
nhiêu,
thành
viên
HĐQT
có
những
tiêu
chuẩn
gì,
mối
quan
hệ
giữa
thành
viên
HĐQT
và
ban
điều
hành
phải
đựoc
quy
định
rất
rõ
ràng,
các
báo
cáo
tài
chính,
báo
cáo
mà
thành
viên
HĐQT
cần
phải
có
là
gì,
bộ
phận
giám
sát
của
các
ngân
hàng
cần
phải
vừa
giám
thành
viên
HĐQT
vừa
giám
sát
ban
điều
hành
và
họ
là
bộ
phận
đại
diện
cho
toàn
bộ
cổ
đông
của
ngân
hàng…
Tất
cả
các
vấn
đề
này
cần
phải
đưa
về
chuẩn
để
lần
tái
cấu
trúc
này
đạt
được
hiệu
quả
cao,
nếu
không
cứ
được
một
thời
gian
lại
tái
cấu
trúc
lại
hệ
thống
ngân
hàng
thì
lấy
đâu
ra
ngân
sách.
Xin
cảm
ơn
ông!