Mối
quan
hệ
giữa
các
công
ty
đa
quốc
gia
và
chính
phủ
các
nước
là
mối
quan
hệ
như
thế
nào?
Làm
cách
nào
để
phát
triển
mối
quan
hệ
này
sao
cho
cả
hai
bên
cùng
có
lợi?
Đó
chính
là
chủ
đề
của
báo
cáo
đặc
biệt
được
tạp
chí
kinh
tế
nổi
tiếng
The
Economist
thực
hiện
mà
chúng
tôi
xin
lược
dịch
và
mong
muốn
giới
thiệu
tới
bạn
đọc.
Diễn
đàn
kinh
tế
thế
giới
được
tổ
chức
thường
niên
với
sự
tham
gia
của
đại
biểu
trên
toàn
thế
giới
vận
dụng
đặc
quyền
của
mình
trưng
cầu
ý
kiến
thành
viên
tham
gia
về
một
loạt
vấn
đề,
trong
đó
có
gánh
nặng
chính
sách
quản
lý
của
chính
phủ
đối
với
hoạt
động
của
doanh
nghiệp.
Singapore
đứng
đầu
danh
sách
các
nước
có
hệ
thống
quản
lý
thông
thoáng
nhất
trong
vòng
8
năm
qua.
Trong
khi
đó,
nhiều
quốc
gia
châu
Âu
đang
tụt
xuống
cuối
bảng
xếp
hạng.
Trong
148
quốc
gia
được
khảo
sát
năm
2013,
Tây
Ban
Nha
xếp
hạng
125,
Pháp
–
hạng
130,
Bồ
Đào
Nha
–
hạng
132,
Hi
Lạp
–
hạng
144
và
Ý
–
hạng
146.
Trong
khi
dân
chúng
Mỹ
liên
tục
phàn
nàn
khi
chính
quyền
của
ông
Obama
tỏ
ra
bất
lực
trong
việc
giúp
đỡ
các
doanh
nghiệp
hồi
phục,
họ
cũng
phải
đối
mặt
với
thực
tế
đáng
thất
vọng:
trong
7
năm
qua
nước
Mỹ
đã
tụt
từ
bậc
23
xuống
bậc
80.
Trong
một
cuộc
điều
tra
riêng
được
tiến
hành
bởi
Liên
đoàn
doanh
nghiệp
độc
lập
quốc
gia,
tỷ
lệ
các
công
ty
coi
qui
định
quản
lý
là
trở
ngại
lớn
nhất
đã
tăng
từ
10%
năm
2009
lên
20%
vào
năm
ngoái.
Những
năm
gần
đây,
các
thị
trường
mới
nổi
có
xu
hướng
cải
cách
hệ
thống
quản
lý.
Ngược
lại,
các
quốc
gia
giàu
có
lại
tăng
cường
thắt
chặt
quản
lý.
Martin
Baily
–
chuyên
gia
đến
từ
trung
tâm
nghiên
cứu
Brookings
đã
thực
hiện
các
cuộc
khảo
sát
nhằm
tìm
ra
nguyên
nhân
tại
sao
năng
suất
một
số
ngành
công
nghiệp
đặc
thù
ở
nước
này
lại
cao
hơn
nước
khác.
Ông
phát
hiện
vấn
đề
qui
định
quản
lý
có
vai
trò
rất
quan
trọng
bởi
nó
có
thể
làm
giảm
sự
cạnh
tranh
khiến
các
doanh
nghiệp
yếu
kém
và
kéo
dài
tình
trạng
trì
trệ.
Ủy
ban
châu
Âu
EU
đã
thống
kê
10
gánh
nặng
hành
chính
phiền
toái
nhất
đối
với
các
doanh
nghiệp,
từ
qui
định
thời
gian
làm
việc
cho
tới
việc
xử
lý
rác
thải;
đồng
thời
tổ
chức
này
cũng
thông
báo
một
kế
hoạch
với
nỗ
lực
cắt
giảm
khoảng
25%
các
qui
định
này.
Tuy
nhiên,
Patrick
Gibbels
-
chuyên
gia
đến
từ
Liên
đoàn
doanh
nghiệp
vừa
và
nhỏ
châu
Âu
-
cho
rằng
Ủy
ban
châu
Âu
và
các
quốc
gia
thành
viên
sẽ
lại
tiếp
tục
đưa
ra
những
luật
lệ
mới
thay
thế.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
hóc
búa
nhất
mà
chính
quyền
phải
đối
mặt
là
người
dân
không
ủng
hộ
các
cải
cách.
Tiền
lương
của
họ
bị
ảnh
hưởng
nặng
nề
sau
khủng
hoảng
trong
khi
các
cải
cách
này
chỉ
có
lợi
cho
doanh
nghiệp.
Trong
giới
tài
chính
đã
xuất
hiện
nhiều
làn
song
cải
cách
luật
lệ
mới;
điều
này
khá
dễ
hiểu
sau
hậu
quả
của
việc
bùng
nổ
tín
dụng
quá
đà.
Ở
một
số
nước,
các
chính
trị
gia
đã
đưa
ra
các
biện
pháp
để
làm
vừa
lòng
cử
tri
như
“đóng
băng”
giá
cả
và
áp
thuế
lên
các
công
ty
lớn,
nhưng
điều
này
ảnh
hưởng
đến
việc
thu
hút
đầu
tư.
Chính
phủ
có
nhiều
lý
do
để
áp
đặt
qui
định
lên
các
công
ty.
Tác
động
bên
ngoài
là
một
nguyên
nhân.
Ví
dụ,
một
công
ty
hóa
chất
bơm
nước
thải
xuống
sông,
không
có
một
cơ
chế
thị
trường
nào
quản
lý
vấn
đề
này
vì
vậy
chính
phủ
phải
can
thiệp
bằng
cách
ra
các
qui
định.
Một
nguyên
nhân
khác
là
để
cân
bằng
lại
quyền
lực
và
bảo
vệ
người
lao
động.
Họ
thường
ở
bên
yếu
thế
hơn,
sẵn
sàng
chịu
mức
lương
thấp
hay
làm
công
việc
nặng
nhọc
để
giữ
được
việc
làm.
Tuy
vậy,
không
phải
tất
cả
luật
lao
động
đều
có
tác
dụng.
Các
qui
định
chỉ
khiến
thị
trường
thêm
phân
hóa
thành
nhân
tố
bên
trong
và
bên
ngoài.
Một
nhóm
lao
động
với
tinh
thần
an
phận
sẽ
tìm
mọi
cách
giữ
lấy
công
việc
đang
có,
nhóm
còn
lại
(thường
là
người
trẻ
tuổi)
chấp
nhận
công
việc
bấp
bênh
nhưng
đảm
bảo
chất
lượng
hoặc
là
không
làm.
Châu
Âu
không
chỉ
có
thị
trường
lao
động
cứng
nhắc
mà
còn
có
chi
phí
lao
động
khá
đắt
đỏ;
nó
đang
có
xu
hướng
tụt
lại
so
với
các
thị
trường
mới
nổi
khác.
Điều
này
có
thể
đẩy
các
doanh
nghiệp
chuyển
hướng
tìm
kiếm
ở
các
thị
trường
tiềm
năng
hơn.
“Khu
vực
tây
Âu
đang
ở
thế
bất
lợi
bởi
chi
phí
lao
động
quá
cao;
chính
phủ
cần
có
những
cải
cách
hệ
thống
thích
hợp”,
ngài
Martin
Sorell
–
ông
chủ
tập
đoàn
WPP
nói.
Nhìn
sang
các
thị
trường
khác,
Singapore
có
mức
thuế
thấp
hơn,
hệ
thống
quản
lý
thông
và
có
lợi
thế
địa
lý
trung
tâm
châu
Á.
Ngài
Martin
dự
đoán
nhiều
tập
đoàn
đa
quốc
gia
sẽ
sớm
dời
trụ
sở
của
họ
đến
vùng
đất
hấp
dẫn
này.
Một
số
thị
trường
khác
lại
lún
sâu
vào
tình
trạng
khủng
hoảng
do
sự
can
thiệp
quá
sâu
của
chính
phủ.
Ví
dụ,
chính
phủ
có
thể
quyết
định
giá
trong
một
lĩnh
vực
chuyên
biệt
dưới
sự
thống
trị
của
các
Cartel;
hoặc
mong
muốn
trợ
cấp
cho
loại
dịch
vụ
mà
không
một
doanh
nghiệp
tư
nhân
nào
muốn
tham
gia.
Có
lẽ
vấn
đề
lớn
nhất
đối
với
các
biện
pháp
can
thiệp
của
chính
phủ
là
thiếu
tư
duy
chiến
lược.
Chính
phủ
chưa
nhận
ra
rằng
họ
đang
sống
trong
một
thế
giới
cạnh
tranh
khốc
liệt;
các
công
ty
sẵn
sàng
chuyển
hướng
đầu
tư
nếu
họ
cho
rằng
các
qui
định
quản
lý
quá
cứng
nhắc.
Một
vài
quốc
gia
đã
tiếp
nhận
xu
thế
này,
tuy
nhiên
nhiều
nước
khác
vẫn
loay
hoay
dựng
nên
những
bức
tường
mới
ngáng
chân
các
nhà
đầu
tư.
Thảo
Phương