Vay
nợ
ODA
đồng
nghĩa
với
việc
sẽ
bị
ràng
buộc
bởi
nhiều
điều
khoản
kinh
tế
khác.
Đánh
đổi
“ODA
không
chỉ
là
tiền”
–
Khái
niệm
này
được
chuyên
gia
nghiên
cứu
về
ODA
Nguyễn
Tiến
Lập
đưa
ra
đầu
tiên,
đến
nay
vẫn
còn
nguyên
giá
trị.
Theo
ông
Lập,
ODA
là
ràng
buộc
bao
gồm
cả
chính
trị
và
kinh
tế,
là
nhiều
cái
giá
phải
trả
của
người
đi
vay.
Khái
niệm
ODA
(Viên
trợ
phát
triển
chính
thức)
từ
năm
1960
khi
được
Tổ
chức
Hợp
tác
và
Phát
triển
kinh
tế
(OECD)
chính
thức
định
nghĩa
tới
nay
đã
trở
thành
một
hiện
tượng
chính
trị
-
kinh
tế
toàn
cầu.
Trong
các
tuyên
bố
và
cam
kết
công
khai
giữa
các
nhà
tài
trợ
và
chính
phủ
các
quốc
gia
nhận
viện
trợ,
mục
đích
của
ODA
thường
bao
gồm
nhiều
vấn
đề
cụ
thể
như
xây
dựng
cơ
sở
hạ
tầng,
hỗ
trợ
nâng
cao
năng
lực
quản
trị
công
hay
xóa
đói
giảm
nghèo...
Tuy
nhiên,
ông
Lập
cho
rằng,
bản
chất
sâu
xa
của
các
mối
quan
hệ
ODA
không
đơn
giản
là
sự
hỗ
trợ
một
chiều
mang
tính
"thiện
chí"
như
vậy.
Ngoài
các
lợi
ích
chính
trị
và
kinh
tế
hai
chiều
được
tính
đến,
các
nhà
tài
trợ
ngày
càng
quan
tâm
đến
thúc
đẩy
qúa
trình
dân
chủ
hóa,
tức
vấn
đề
cải
cách
nhà
nước
và
thể
chế,
ở
các
nước
nhận
viện
trợ.
Động
cơ
của
sự
quan
tâm
này
là
"dân
chủ
hóa",
điều
kiện
tiên
quyết
cho
việc
xóa
đói
giảm
nghèo
một
cách
bền
vững,
căn
bản,
đồng
thời
tạo
môi
trường
quan
trọng
và
cần
thiết
để
bảo
đảm
ổn
định
và
an
ninh
toàn
cầu.
Ngoài
những
yêu
cầu
về
mặt
chính
trị,
vay
nợ
ODA
đồng
nghĩa
với
việc
sẽ
bị
ràng
buộc
bởi
nhiều
điều
khoản
kinh
tế
khác.
Ví
dụ,
vốn
ODA
của
Nhật
cho
vay
luôn
đi
kèm
với
điều
kiện
Việt
Nam
phải
sẽ
phải
sử
dụng
công
ty
tư
vấn
Nhật,
nhà
thầu
Nhật,
vật
liệu
nhập
khẩu
từ
Nhật.
Vốn
STEP,
hay
còn
gọi
là
vốn
có
các
điều
kiện
vay
đặc
biệt
dành
cho
các
đối
tác
kinh
tế,
lãi
suất
thấp,
thời
gian
trả
nợ
và
ân
hạn
kéo
dài
(có
thể
lên
đến
30-40
năm).
Tuy
nhiên,
để
giải
ngân
vốn
STEP
không
phải
dễ
dàng,
bởi
điều
khoản
vay
bắt
buộc
sử
dụng
nhà
thầu,
vật
liệu,
dịch
vụ
của
Nhật
Bản
(chi
phí
cao
hơn
rất
nhiều
lần
sử
dụng
nhà
thầu,
vật
liệu,
dịch
vụ
trong
nước).
Đó
chính
là
nguyên
nhân
đẩy
giá
các
công
trình
ODA
lên
cao.
“Vay
vốn
ODA
nhưng
phải
mua
lại
công
nghệ,
dịch
vụ
cao,
chi
phí
đút
lót
đều
được
tính
vào
giá
công
trình.
–
Chuyên
gia
kinh
tế
Lê
Đăng
Doanh
lưu
ý.
Trong
một
phân
tích
khi
trả
lời
giới
báo
chí,
chuyên
gia
kinh
tế
Phạm
Chi
Lan
đã
tính
toán
“60-70%
các
công
trình
ODA
của
Nhật
Bản
dành
cho
Việt
Nam
(tiền
Việt
Nam
trả
cho
thực
hiện
dự
án)
đều
vào
tay
các
công
ty
của
Nhật
Bản.
Chính
phủ
Nhật
cho
Việt
Nam
vay
vốn
ODA
và
các
công
ty
của
họ
nhận
được
lại
số
vốn
đó
khi
dự
án
được
triển
khai
tại
Việt
Nam.
Các
nước
khác
như
một
số
nước
châu
Âu,
với
dự
án
ODA
họ
thường
có
cơ
chế
đấu
thầu
cạnh
tranh
mở
hơn,
có
thể
vốn
của
châu
Âu
nhưng
không
nhất
thiết
là
phải
doanh
nghiệp
châu
Âu
thực
hiện
dự
án
đó.
Cũng
chính
vì
điều
này,
một
số
công
ty
nước
ngoài
thường
"lobby"
(vận
động
hành
lang)
cho
chính
phủ
của
họ
để
bán
hàng
cho
các
dự
án
ODA
nào
đó.
Khi
dự
án
ODA
đó
được
triển
khai
họ
lấy
lại
tiền
rất
nhanh
để
cho
các
công
ty
của
họ
thực
hiện
dự
án
ODA,
còn
Việt
Nam
thì
gánh
nợ
ODA
rất
lớn.”
Tiền
đi
vay,
không
tự
trên
trời
rơi
xuống
Theo
chuyên
gia
Nguyễn
Tiến
Lập,
việc
sử
dụng
ODA
ở
Việt
Nam,
khác
với
nhiều
quốc
gia
Nam
Á
và
châu
Phi,
đã
tạo
ra
những
hiệu
quả
rõ
rệt
và
đầy
ấn
tượng
trong
việc
duy
trì
nhịp
độ
tăng
trưởng
của
nền
kinh
tế,
(trung
bình
trên
7%
kể
từ
năm
1994)
và
xóa
đói
giảm
nghèo.
Số
liệu
của
Bộ
KHĐT,
hiện
ở
Việt
Nam
có
trên
50
nhà
tài
trợ
song
phương
và
đa
phương
đang
hoạt
động
với
tổng
vốn
ODA
cam
kết
cho
Việt
Nam
từ
năm
1993
đến
nay
là
78,195
tỷ
USD.
Với
một
đất
nước
nghèo
như
Việt
Nam,
nhất
là
khi
thu
nhập
của
người
dân
vẫn
ở
mức
thấp,
muốn
kiến
thiết
đất
nước
thì
việc
được
vay
vốn
từ
các
quốc
gia
bên
ngoài
là
cần
thiết
.
Ngân
hàng
Thế
giới
cũng
đánh
giá,
Việt
Nam
sẽ
phải
cần
tới
150
tỷ
USD
để
phát
triển
hạ
tầng
cơ
sở,
do
vậy,
nguồn
vốn
ODA
còn
rất
quan
trọng
trong
việc
giải
quyết
nhu
cầu
này.
Tuy
nhiên,
ông
Lập
cho
rằng,“bên
cạnh
những
kết
quả
tích
cực,
người
ta
đang
có
những
đánh
giá
khác
đi
hoặc
thậm
chí
ngược
lại
với
các
kết
quả
trên.”
Chẳng
hạn
–
theo
ông
Lập-
đó
là
việc
nghi
ngờ
tính
bền
vững
của
quá
trình
tăng
trưởng
kinh
tế
cao
sau
khi
việc
cấp
vốn
ODA
không
còn
nữa,
(theo
một
số
nhà
tài
trợ,
các
nguồn
vốn
ODA
có
thể
sẽ
giảm
cơ
bản
và
tiến
tới
cắt
hoàn
toàn
sau
khi
GDP/đầu
người/năm
của
Việt
Nam
đạt
1000
USD).
Hay
nếu
nhìn
vào
hệ
thống
các
công
trình
thuộc
cơ
sở
hạ
tầng
kỹ
thuật
của
nền
kinh
tế
như
đường
cao
tốc,
đường
sắt,
sân
bay,
cảng,
cầu...
thì
rõ
ràng
mặc
dù
cho
tới
nay
hàng
chục
tỷ
USD
vốn
ODA
đã
được
giải
ngân
nhưng
Việt
Nam
vẫn
hầu
như
chưa
có
được
những
công
trình
lớn
đạt
tiêu
chuẩn
quốc
tế.
“Vấn
đề
ở
chỗ
nhiều
công
trình
hạ
tầng
có
sử
dụng
vốn
ODA
nhưng
được
xây
dựng
với
chất
lượng
quá
kém.
Do
đó,
câu
hỏi
tiếp
theo
là
Việt
Nam
sẽ
lấy
vốn
ở
đâu
để
vừa
tiếp
tục
xây
dựng
mới,
đồng
thời
vừa
sửa
chữa
những
công
trình
hạ
tầng
có
chất
lượng
kém
đó,
một
khi
không
còn
ODA
nữa
?”
–
Chuyên
gia
này
đặt
câu
hỏi.
Đây
cũng
là
thực
tế
mà
nhiều
chuyên
gia
trong
ngành
hay
đặt
ra.
Việc
sử
dụng
ODA
lãng
phí
và
thất
thoát
khiến
cho
đồng
vốn
đi
vay
giá
cao
nhưng
lại
không
phát
huy
được
hiệu
quả
triệt
để.
Trái
lại,
cơ
chế
quản
lí
nhiều
lỗ
hổng,
hậu
quả
là
gánh
nặng
tham
nhũng
còn
đè
thêm
lên
khiến
đồng
vốn
trở
nên
đắt
đỏ
nặng
nề,
trách
nhiệm
trả
nợ
của
con
cháu
đi
sau
trở
nên
trầm
trọng
hơn,
bức
bối
hơn.
Nghèo,
thiếu
tiền
mà
muốn
“đổi
vận”
thì
phải
đi
vay
để
đầu
tư;
nhưng
đi
vay
rồi
về
tiêu
pha
vung
vãi
thì
hậu
quả
rất
lớn.
Nợ
dồn
nợ
góp,
không
trả
bây
giờ
thì
mai
sau
cũng
phải
trả.
Đấy
là
điều
tất
yếu
cuộc
sống,
điều
mà
nói
ra
thì
thừa,
bởi
chắc
chắn
ai
cũng
biết.
Thế
mới
nói,
giá
người
dân
có
thể
tự
lực
cách
sinh
để
góp
tiền
xây
dựng
cơ
sở
hạ
tầng,
thay
vì
đi
vay
rồi
về
nhà
nước
quản
lí
kém
hiệu
quả,
để
rơi
vãi
khắp
nơi
như
hiện
tại.
Hồng
Anh
Theo
Trí
Thức
Trẻ