"DN
chưa
tận
dụng
được
nhiều
số
ưu
đãi
thuế
quan
nước
mình
có
được
từ
các
hiệp
định
FTA
đã
ký.”
-
Ls
Trần
Hữu
Huỳnh
nhận
định
tại
Hội
thảo
Quốc
hội
với
việc
đàm
phán
FTA
mới
đây.
"Sướng" mà
không được
hưởng
Hiện
nay
Việt
Nam
đã
có
8
FTA
được
ký
kết,
bao
gồm:
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
ASEAN
(AFTA
1996),
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
ASEAN
–
Trung
Quốc
(ACFTA
2004),
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
ASEAN
–
Hàn
Quốc
(AKFTA
2006),
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
ASEAN
–
Nhật
Bản
(AJFTA
2008),
Hiệp
định
kinh
tế
Việt
Nam
–
Nhật
Bản
(
VJEPA
2009),
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
ASEAN
–
Úc
và
New
Zealand
(AANZFTA
2010),
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
ASEAN
-
Ấn
Độ
(AIFTA
2010),
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
Việt
Nam
–
Chi
Lê
(VCFTA
2012).
Trên
thực
tế,
các
FTA
này
đã
mang
lại
nhiều
tác
động
tích
cực
đến
nền
kinh
tế
Việt
Nam,
như
sản
xuất
xuất
khẩu
có
lợi
hơn
từ
việc
loại
bỏ
thuế
quan.
Tăng
trưởng
xuất
khẩu
với
mức
độ
cao
hơn
giai
đoạn
trước
khi
có
hầu
hết
các
FTA,
tăng
trưởng
nhập
khẩu
đối
với
các
loại
máy
móc
thiết
bị
chiếm
tỷ
lệ
đáng
kể
trong
cơ
cấu.
Các
FTA
cũng
khiến
Việt
Nam
thu
hút
được
nhiều
hơn
nguồn
vốn,
công
nghệ
và
trình
độ
quản
lý.
Cụ
thể,
7/10
nước
đầu
tư
vào
Việt
Nam
là
các
nước
đã
có
FTA
với
Việt
Nam.
Vốn
FDI
từ
các
đối
tác
đầu
tư
đến
từ
các
nước
đã
có
FTA
với
Việt
Nam
cũng
chiếm
tới
34%
tổng
vốn
FDI
của
tất
cả
các
nước
cộng
lại.
Môi
trường
kinh
doanh
cũng
nhờ
gia
nhập
FTA
mà
trở
nên
thông
thoáng
hơn,
an
toàn
hơn
với
một
loạt
các
văn
bản
chính
sách,
pháp
luật
được
xây
dựng,
sửa
đổi;
một
loạt
các
chính
sách
hoàn
thiện
thể
chế
kinh
tế
thị
trường
được
đưa
ra;
cải
cách
thủ
tục
hành
chính
được
đề
ra
trên
diện
rộng.
Thậm
chí,
doanh
nghiệp
từ
thế
hoàn
toàn
bị
động
cũng
trở
nên
bớt
bị
động
hơn
khi
tham
gia
vào
góp
ý
các
chính
sách
thương
mại
quốc
tế.
“Thế
nhưng
điều
đáng
lưu
tâm
hơn
cả,
là
cộng
đồng
DN
chưa
tận
dụng
được
đầy
đủ
các
ưu
đãi
thuế
quan
của
các
FTA”
-
Ls
Trần
Hữu
Huỳnh,
Chủ
tịch
Ủy
ban
tư
vấn
chính
sách
thương
mại
quốc
tế
VCCI
nhận
định.
Ông
Huỳnh
dẫn
ra
mấy
lí
do:
“Một
là
do
không
biết,
hai
là
do
không
đáp
ứng
được
điều
kiện
về
quy
tắc
xuất
xứ,
ba
là
do
thủ
tục
trình
tự
phức
tạp.
Theo
chúng
tôi
cái
cơ
bản
nhất
vẫn
là
không
đáp
ứng
được
các
điều
kiện.”
Theo
số
liệu
của
Bộ
Công
Thương,
theo
dõi
từ
2005
đến
2011,
tỷ
lệ
C/O
ưu
đãi
trên
kim
ngạch
xuất
khẩu
dưới
tác
động
của
các
hiệp
định
thương
mại
tư
do
là
rất
ít.
Ngoại
trừ
con
số
của
hiệp
định
thương
mại
AKFTA
giữa
Asean
với
Hàn
Quốc
có
tỷ
lệ
90%,
thì
rất
nhiều
các
hiệp
định
khác,
tỷ
lệ
C/O
ưu
đãi
trên
kim
ngạch
xuất
khẩu
chỉ
ở
mức
15,
20%,
cao
lắm
thì
30%,
thấp
thì
thậm
chí
chỉ
là
7,37%
như
AIFTA.
Số
liệu
về
tỷ
lệ
kim
ngạch
xuất
khẩu
VN
tận
dụng
được
các
ưu
đãi
thuế
quan
theo
các
FTA
-
Nguồn
:
VCCI
-
Bộ
Công
thương
“Như
vậy
là
các
ưu
đãi
được
hưởng
thì
DN
Việt
Nam
chưa
khai
thác
được
hết.
Đã
có
ưu
đãi
rồi
mà
không
khai
thác
được,
điều
này
kéo
dài
suốt
cả
một
quá
trình,
đặt
ra
dấu
hỏi
lớn
về
khả
năng
của
cộng
đồng
doanh
nghiệp
trong
việc
tận
dụng,
về
việc
tự
thân
vượt
khó
của
DN
VN
trong
thời
buổi
gia
nhập
thị
trường
quốc
tế
như
thế
này.”
“Rõ
ràng
là
xuất
khẩu
tăng
nhanh
nhưng
giá
trị
gia
tăng
không
cao.
Trong
cơ
cấu
hàng
hóa
thì
chủ
yếu
là
xuất
khẩu
nguyên
liệu
thô,
hàng
gia
công.
Trong
cơ
cấu
thành
phần
DN,
thì
DN
FDI
khai
thác
được
nhiều
hơn
DN
nội
địa.
Phải
làm
sao?
Hiện
nay
Việt
Nam
đang
trong
quá
trình
đàm
phán
Hiệp
định
thương
mại
tự
do:
Châu
Á
–
Thái
Bình
Dương
TPP,
Việt
Nam
–
EU
(EVFTA),
Việt
Nam-
Liên
minh
thuế
quan
Nga-Belarus-Karzakstan
(VCUFTA),
ASEAN+6
(RCEP),
Việt
Nam
–
Khối
EFTA
(VEFTA)
và
Việt
Nam
–
Hàn
Quốc
(VKFTA).
Các
FTA
mới
này
được
đánh
giá
là
sẽ
mang
lại
nhiều
cơ
hội
hơn
cho
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
ngoài
những
cơ
hội
từ
FTA
đang
có
như:
lợi
ích
xuất
khẩu
lớn
(đặc
biệt
đối
với
các
mặt
hàng
xuất
khẩu
chủ
lực),
cơ
hội
tiếp
cận
thiết
bị,
công
nghệ
sạch
và
hiện
đại,
tiếp
cận
nguồn
vốn
đầu
tư
chất
lượng,
loại
bỏ
thuế
quan,
minh
bạch
hóa,
đơn
giản
hóa
thủ
tục
nhập
khẩu…
Tuy
nhiên,
ông
Huỳnh
vẫn
tỏ
ra
lo
ngại
về
khả
năng
các
doanh
nghiệp
có
thể
để
vuột
mất
các
cơ
hội
của
mình
nếu
không
tiếp
tục
thiếu
thông
tin
hay
không
đủ
điều
kiện
đáp
ứng
các
quy
tắc
xuất
xứ
mới,
thủ
tục
chứng
nhận
xuất
xứ
mới.
“Về
lâu
dài
thì
liệu
sau
này
khi
ký
kết
thêm
các
FTA
nữa
thì
tình
trạng
(năng
lực
của
DN,
việc
tận
dụng
cơ
hội
của
doanh
nghiệp
nội
địa
-
PV)
có
được
cải
thiện
không?
Thực
trạng
này
còn
tiếp
tục
xảy
ra
nữa
không
sau
khi
6
FTA
thế
hệ
mới
này
được
ký
kết?”
Ông
Huỳnh
cho
rằng,
DN
nên
được
tạo
điều
kiện
khi
được
tiếp
cận
thông
tin
đàm
phán,
được
hướng
dẫn
để
xác
định,
đánh
giá
tác
động
đối
với
doanh
nghiệp,
được
tham
vấn
thực
chất
và
thường
xuyên
trong
suốt
quá
trình
trước
và
trong
khi
đàm
phán,
trừ
những
FTA
yêu
cầu
đàm
phán
kín.
Thêm
nữa,
khi
FTA
đã
ký
kết
thì
cần
cung
cấp
cho
doanh
nghiệp
thông
tin
chính
xác,
đầy
đủ,
có
thể
hiểu
được
về
các
FTA,
hướng
dẫn
cho
họ
cách
thức
thực
tế
để
tận
dụng
các
cơ
hội
từ
FTA,
và
đặc
biệt
là
tư
vấn
về
các
FTA
cho
doanh
nghiệp
khi
họ
cần.
Bởi
theo
ông
Huỳnh,
DN
có
thông
tin
thì
mới
có
được
sự
chuẩn
bị
đầy
đủ
các
yếu
tố
khác
được.
“Doanh
nghiệp
cũng
nên
chủ
động
tham
gia
cùng
Chính
phủ
thông
qua
các
hiệp
hội
đại
diện.
Bởi
vì
nếu
cứ
bị
động,
coi
việc
đàm
phán
là
của
Chính
phủ
như
hiện
tại
thì
rất
khó
để
thay
đổi
tình
hình,
dù
Chính
phủ
có
tạo
điều
kiện
tốt
hơn
cho
việc
này.”.
–
Chủ
tịch
Ủy
ban
tư
vấn
chính
sách
thương
mại
quốc
tế
của
VCCI
khuyến
nghị.
Hồng
Anh
Theo
Trí
Thức
Trẻ