Cú
sốc
ở
vùng
Trung
Đông
lan
ra
toàn
nước
Mỹ
và
sau
đó
“nhảy”
từ
New
York
sang
Liverpool,
Glasgow
và
cuối
cùng
cũng
chạm
đến
London.
Các
thị
trường
cũng
sụp
đổ
ở
Paris,
Hamburg,
Copenhagen
và
Vienna.
Các
cuộc
khủng
hoảng
sẽ
khiến
thị
trường
tài
chính
chao
đảo.
Đó
là
điều
không
phải
bàn
cãi.
Tuy
nhiên,
có
một
khía
cạnh
khác
của
khủng
hoảng
ít
được
bàn
luận
đến:
chính
khủng
hoảng
góp
phần
định
hình
thị
trường
tài
chính.
5
cuộc
khủng
hoảng
trong
quá
khứ
sẽ
cho
chúng
ta
thấy
những
khía
cạnh
của
hệ
thống
tài
chính
ngày
nay
bắt
nguồn
từ
đâu.
Các
nhà
quản
lý
cũng
có
thể
học
được
nhiều
bài
học
từ
các
sự
kiện
này.
Đây
chính
là
nội
dung
của
chùm
bài
viết
được
đăng
tải
trên
tờ
The
Economist
mà
chúng
tôi
sẽ
lần
lượt
giới
thiệu
tới
bạn
đọc.
Bài
viết
này
nói
về
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
toàn
cầu
đầu
tiên.
Đến
giữa
thế
kỷ
19,
thế
giới
đã
quá
quen
với
các
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính.
Gần
như
cứ
mỗi
thế
kỷ,
nước
Anh
lại
trải
qua
một
cuộc
khủng
hoảng.
Theo
sau
khủng
hoảng
1825
–
26
là
những
cơn
hoảng
loạn
trong
năm
1837
và
1847.
Do
đó,
đối
với
những
người
đã
nắm
được
quy
luật
này,
sự
kiện
thị
trường
sụp
đổ
năm
1857
không
có
gì
khó
hiểu.
Tuy
nhiên,
cuộc
khủng
hoảng
lần
này
có
nhiều
điểm
khác
biệt.
Cú
sốc
ở
vùng
Trung
Đông
lan
ra
toàn
nước
Mỹ
và
sau
đó
“nhảy”
từ
New
York
sang
Liverpool,
Glasgow
và
cuối
cùng
cũng
chạm
đến
London.
Các
thị
trường
cũng
sụp
đổ
ở
Paris,
Hamburg,
Copenhagen
và
Vienna.
Khủng
hoảng
đã
lan
ra
toàn
cầu.
Nhìn
bề
ngoài
thì
nước
Anh
đã
làm
khá
tốt
trong
những
năm
1850.
Hoạt
động
xuất
khẩu
ra
thị
trường
thế
giới
bùng
nổ,
những
mỏ
vàng
được
phát
hiện
ở
Australia.
Tuy
nhiên,
ẩn
sau
ở
bên
trong
là
hai
thay
đổi
lớn
đang
diễn
ra.
Sự
thay
đổi
đầu
tiên
là
mạng
lưới
các
liên
kết
về
kinh
tế
đã
hình
thành.
Đến
năm
1857,
Mỹ
có
thâm
hụt
cán
cân
vãng
lai
ở
mức
25
triệu
USD
với
Anh
và
các
thuộc
địa
là
đối
tác
thương
mại
chính.
Người
Mỹ
mua
nhiều
hàng
hóa
hơn
so
với
bán
ra,
trong
khi
Anh
mua
các
tài
sản
của
Mỹ
để
cung
cấp
nguồn
vốn
(giống
như
Trung
Quốc
ngày
nay).
Đến
giữa
những
năm
1850,
khối
lượng
cổ
phiếu
và
trái
phiếu
Mỹ
mà
Anh
nắm
giữ
có
giá
trị
vào
khoảng
80
triệu
USD.
Các
công
ty
đường
sắt
là
một
lựa
chọn
đầu
tư
được
khá
nhiều
người
ưa
chuộng.
Cổ
phiếu
của
các
công
ty
đường
sắt
Mỹ
(như
Illinois
Central
hay
Philadelphia
và
Reading)
đều
được
người
Anh
nắm
giữ
nhiều
đến
nỗi
họ
có
mặt
trong
hội
đồng
quản
trị.
Mặc
dù
lợi
nhuận
của
các
công
ty
này
không
tương
xứng
với
giá
trị
vốn
hóa
của
chúng,
điều
đó
cũng
không
hề
gì
bởi
đây
là
khoản
đầu
tư
mang
tính
chất
dài
hạn.
Thay
đổi
lớn
thứ
hai
là
các
phát
minh
tài
chính
nở
rộ.
Vì
các
ngân
hàng
cổ
phần
của
Anh
lớn
mạnh,
lượng
tiền
gửi
tăng
tới
400%
từ
năm
1847
đến
1857.
Đồng
thời,
một
loại
hình
mới
là
hãng
chiết
khẩu
(the
discount
house)
mọc
lên
như
nấm
ở
London.
Đầu
tiền,
loại
hình
này
ra
đời
với
hình
thức
những
người
môi
giới
kết
nối
nhà
đầu
tư
với
các
doanh
nghiệp
thiếu
tiền.
Tuy
nhiên,
khi
thị
trường
tài
chính
phát
triển
mạnh
mẽ,
các
tổ
chức
biến
đổi.
Chúng
nhận
tiền
của
nhà
đầu
tư
và
hứa
hẹn
tiền
có
thể
được
rút
ra
bất
cứ
lúc
nào.
Cạnh
tranh
diễn
ra
rất
gay
gắt.
Bởi
vì
các
ngân
hàng
cổ
phần
trả
cho
người
gửi
tiền
mức
lãi
suất
thấp
hơn
1
điểm
phần
trăm
so
với
lãi
suất
của
NHTW
Anh,
bất
kỳ
hãng
chiết
khẩu
nào
trả
giá
thấp
hơn
sẽ
không
thể
thu
hút
nguồn
vốn.
Tuy
nhiên,
bởi
vì
NHTW
là
một
ngân
hàng
hoạt
động
năng
nổ
và
chiết
khấu
tốt
nhất,
mức
lợi
suất
mà
ngân
hàng
này
đưa
ra
được
coi
là
mức
trần
cho
lãi
suất
mà
các
hãng
chiết
khấu
có
thể
thu
từ
người
đi
vay.
Bởi
vì
tiền
mặt
có
lãi
suất
gần
như
bằng
0,
họ
cắt
giảm
lượng
dự
trữ
tiền
mặt
xuống
gần
0
và
cho
rằng
luôn
luôn
có
thể
vay
từ
NHTW
Anh,
kể
cả
trường
hợp
nhà
đầu
tư
rút
tiền
với
quy
mô
lớn.
Trong
khi
đó
ở
Mỹ,
Edward
Ludlow
-
lãnh
đạo
của
công
ty
bảo
hiểm
Ohio
Life
–
bị
cuốn
vào
cơn
sốt
công
ty
đường
sắt.
Các
đường
ray
mới
được
xây
dựng
để
nối
liền
các
thành
phố
phía
Đông
với
các
thị
trấn
mới.
Có
rất
nhiều
nhà
đầu
tư
đã
mạnh
tay
rót
tiền
vào
ngành
này,
nhưng
Ludlow
mạnh
tay
hơn
cả.
Ludlow
đầu
tư
3
triệu
USD
vào
các
công
ty
đường
sắt
trong
khi
tổng
tài
sản
của
Ohio
Life
là
4,8
tỷ
USD.
Cuối
mùa
xuân
năm
1857,
cổ
phiếu
đường
sắt
bắt
đầu
lao
dốc.
Vì
có
tỷ
lệ
đòn
bẩy
quá
lớn
và
đầu
tư
quá
nhiều
vào
ngành
này,
Ohio
Life
sụp
đổ
vào
ngày
24/8.
Một
nghiên
cứu
được
thực
hiện
bởi
Charles
Calomiris
(đến
từ
ĐH
Columbia)
và
Larry
Schweikart
(đến
từ
ĐH
Dayton)
cho
thấy
rắc
rối
đã
lan
rộng
ra
phía
Đông.
Khi
các
ngân
hàng
bán
tháo
cổ
phiếu,
giá
còn
giảm
mạnh
hơn
nữa
và
lỗ
cũng
phình
to.
Đến
ngày
13/10,
phố
Wall
chật
cứng
những
người
gửi
tiền
yêu
cầu
được
trả
lại
tiền.
Hệ
thống
tài
chính
của
nước
Mỹ
sụp
đổ.
Khi
những
quân
domino
bắt
đầu
bị
đốn
ngã,
những
thành
phố
đầu
tiên
ở
Anh
bị
ảnh
hưởng
là
Glassgow
và
Liverpool.
Các
thương
nhân
giao
dịch
với
các
công
ty
Mỹ
bắt
đầu
gặp
khó
khăn
kể
từ
tháng
10.
Dennistoun,
một
ngân
hàng
của
Mỹ
có
chi
nhánh
ở
Liverpool,
Glasgow,
New
York
và
New
Orleans
sụp
đổ
vào
ngày
7/11.
Toàn
bộ
hệ
thống
ngân
hàng
của
nước
Anh
lâm
vào
khủng
hoảng:
Các
hãng
chiết
khấu
khiến
vấn
đề
tệ
hơn
nhiều
lần.
Họ
đã
trở
thành
nguồn
tín
dụng
không
thể
thiếu
của
các
công
ty.
Tuy
nhiên,
nhà
đầu
tư
hoài
nghi
về
bảng
cân
đối
kế
toán
của
các
định
chế
này.
Tiếp
sau
đó
là
các
doanh
nghiệp
phá
sản.
Trong
vòng
3
tháng
cuối
của
năm
1857,
tổng
cộng
có
135
vụ
phá
sản,
khiến
nhà
đầu
tư
mất
42
triệu
USD.
Tầm
quan
trọng
của
nền
kinh
tế
Anh
cũng
như
hệ
thống
tài
chính
nước
này
đồng
nghĩa
với
cơn
hoảng
loạn
lan
ra
toàn
bộ
châu
Âu.
Khủng
hoảng
lan
rộng
(theo
thứ
tự
trong
bản
đồ)
Không
chỉ
là
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
toàn
cầu
đầu
tiên,
khủng
hoảng
1857
còn
đưa
đến
một
kết
luận
mới:
mạng
lưới
đảm
bảo
an
toàn
của
hệ
thống
tài
chính
có
thể
khiến
người
ta
chấp
nhận
quá
nhiều
rủi
ro.
Các
hãng
chiết
khấu
hành
động
theo
cách
mạo
hiểm,
nắm
giữ
quá
ít
tài
sản
có
tính
thanh
khoản
cao
và
sử
dụng
tỷ
lệ
đòn
bẩy
lớn
là
bởi
họ
biết
rằng
lúc
nào
cũng
có
thể
vay
tiền
từ
NHTW
Anh.
Không
hài
lòng
với
điều
này,
NHTW
Anh
thay
đổi
chính
sách
vào
năm
1858.
Các
hãng
chiết
khấu
phải
tự
bảo
hiểm,
duy
trì
dự
trữ
tiền
mặt
thay
vì
phụ
thuộc
vào
NHTW.
Cuộc
khủng
hoảng
1857
trở
thành
ví
dụ
hiếm
hoi
cho
trường
hợp
nhà
nước
cố
gắng
thu
hẹp
hỗ
trợ
đối
với
các
ngân
hàng.
Sự
kiện
này
cũng
cho
thấy
cắt
giảm
trợ
cấp
là
chính
sách
không
bao
giờ
được
ưa
chuộng.
NHTW
Anh
được
cho
là
đã
vội
vã
khi
thực
hiện
cải
cách.
The
Economist
cho
rằng
cải
cách
nên
được
áp
dụng
từ
từ
trên
từng
trường
hợp
cụ
thể
thay
vì
áp
đặt
trên
diện
rộng.
Một
số
người
thì
cho
rằng
NHTW
Anh
thiếu
đi
niềm
tin
của
thị
trường
bởi
nó
sẽ
không
bao
giờ
cho
phép
một
hãng
chiết
khấu
lớn
sụp
đổ.
Họ
đã
nhầm.
Năm
1866,
Overend
&
Gurney
-
khi
đó
là
một
ông
lớn
trên
thị
trường
-
cần
đến
tiền
mặt
khẩn
cấp.
NHTW
Anh
đã
từ
chối
cứu
trợ.
Nước
Anh
được
hưởng
50
năm
yên
bình
sau
đó.
Một
số
nhà
sử
học
thừa
nhận
đó
là
do
sự
thận
trọng
của
ngành
ngân
hàng
sau
những
bài
học
về
rủi
ro
đạo
đức.
Thu
Hương
Theo
Trí
Thức
Trẻ/Economist