Không
thể
xem
là
bình
thường!
PV: -Thưa
ông
tại
kỳ
họp
thứ
7
vừa
qua,
các
vị
ĐBQH
đã
chỉ
thẳng
tình
trạng,
vay
nợ
về
để
đáo
nợ
và
lo
ngại,
điều
này
sẽ
khiến
vấn
đề
nợ
công
ngày
càng
nặng
nề
và
khó
giải
quyết.Theo
ông,
vấn
đề
đi
vay
về
đề
trả
nợ
có
phải
là
một
vấn
đề
mới
không
và
vì
sao?
TS
Nguyễn
Đình
Cung: -
Chuyện
đi
vay
về
trả
nợ
vừa
được
Quốc
hội
bàn
thảo
và
Bộ
trưởng
Bộ
Tài
chính
từng
giải
trình
việc
này
không
có
vấn
đề
gì,
không
làm
phát
sinh
thêm
nợ
mới.
Cá
nhân
tôi
thì
không
đồng
ý
với
quan
điểm
này.
Cần
hiểu
rằng
việc
đi
vay
về
để
trả
nợ
điều
đó
đang
chứng
tỏ
khả
năng
tạo
ra
vốn
để
trả
nợ
là
không
có.
Hay
nói
cách
khác
phải
đi
vay
thêm
nghĩa
là
anh
đang
không
có
đủ
năng
lực
để
trả
nợ.
Tình
trạng
như
thế
không
thể
nói
là
bình
thường
được.
Chỉ
cần
hiểu
đơn
giản
theo
mô
hình
của
một
gia
đình,
phải
đi
vay
nợ
nhưng
đến
kỳ
hạn
trả
lại
không
tích
lũy
được
tiền
để
trả
nợ,
như
vậy
là
khả
năng
trả
nợ
kém
đi.
Trong
trường
hợp
này
phải
đi
vay
về
để
đảo
nợ.
Đáng
lẽ
ra
trong
hoàn
cảnh
khó
khăn
về
nguồn
vốn,
phải
đi
vay
rồi
thì
nguồn
vốn
đó
phải
dùng
để
tạo
ra
năng
lực
để
trả
nợ.
Đằng
này
vay
về
không
phải
để
đầu
tư,
cũng
không
tạo
ra
nguồn
lực
mà
là
vay
nợ
về
trả
nợ
có
nghĩa
là
yêu
cầu
về
trả
nợ
ngày
càng
tăng
lên.
Điều
này
kéo
theo
khả
năng
trả
nợ
tiếp
tục
giảm
đi.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay thì buộc phải áp dụng biện pháp trước đi vay về để đảo nợ trong giai đoạn ngắn hạn.
PV: - Đúng
là
nguồn
vốn
vay
đã
không
được
đầu
tư
để
sinh
lời,
trong
khi
đầu
tư
công
tràn
lan
lãng
phí
đã
được
nói
đến
nhiều
lần;
công
trình
vay
ODA
giá
cao
và
đội
vốn
gấp
đôi
đều
đã
được
ghi
nhận,
nợ
của
các
tập
đoàn
nhà
nước
mà
Chính
phủ
bảo
lãnh
ở
mức
rất
cao…
Với
tình
trạng
hiện
tại,
liệu
Việt
Nam
còn
kịp
nhìn
lại
và
điều
chỉnh
việc
sử
dụng
các
nguồn
vốn
vay?
Muốn
như
vậy
thì
phải
làm
gì?
Tình
trạng
hiện
nay
nếu
không
được
giải
quyết
sẽ
dẫn
đến
hệ
lụy
gì
thưa
ông?
TS
Nguyễn
Đình
Cung: -
Thực
ra
vấn
đề
này
hiện
nay
chúng
ta
đều
đã
biết
và
nhận
ra.
So
với
trước
đây
thì
nay
chúng
ta
đang
hy
vọng
nhiều
vào
Luật
đầu
tư
công
như
một
công
cụ
để
quản
lý
đầu
tư
công.
Rõ
ràng
việc
thắt
chặt
ngân
sách
đối
với
đầu
tư
công
phải
áp
dụng
một
cơ
chế,
kỷ
cương
kỷ
luật
tài
chính
hết
sức
chặt
chẽ
đối
với
đơn
vị
đầu
tưnói
chung
và
từng
dự
án
nói
riêng.
Muốn
thắt
chặt
thì
cần
phải
làm
rõ
trách
nhiệm
giải
trình
của
từng
cá
nhân
phụ
trách
đối
với
từng
dự
án
và
cơ
quan
quản
lý
cũng
phải
rõ
ràng,
rành
mạch.
Ví
dụ
đối
với
từng
dự
án
không
thể
có
chuyện
điều
chỉnh
dự
toán
đầu
tư
một
cách
tùy
ý
và
tùy
tiện
như
hiện
nay.
Có
thể
phải
coi
kỷ
luật
ngân
sách
đối
với
từng
dự
toán
như
một
đạo
luật,
trong
đó
chính
cơ
quan
đầu
tư
phải
xác
định
được
rủi
ro
có
thể
xảy
ra
trong
quá
trình
thực
hiện.
Theo
đó
rủi
ronếu
xảy
ra
sẽ
có
tác
động
đối
với
dự
toán
như
thế
nào
và
chỉ
khi
xảy
ra
thì
mới
được
điều
chỉnh
dự
toán.
Khi
đó
mức
độ
rủi
ro
ở
mức
nào
thì
điều
chỉnh
dự
toán
đến
mức
đó.
Cũng
phải
nói
rằng
phải
xác
định
mức
trần
về
rủi
ro
có
thể
xảy
ra
và
được
điều
chỉnh
để
từ
đó
thắt
chặt
ngân
sách
đối
với
dự
án
đầu
tư.
Nếu những thứ làm thay đổi dự án, tức là yếu tố khác ngoài rủi ro đã được xác định trước dẫn tới việc làm tăng dự toán thì chủ đầu tư và các bên khác phải chịu trách nhiệm chứ ngân sách sẽ không bỏ thêm một xu.
Nếu
không
làm
được
điều
này
thì
một
nguy
cơ
rất
lớn
sẽ
xảy
ra
là
lúc
đầu
xây
dựng
dự
toán
rất
thấp
để
được
thông
qua.
Khi
có
vốn
rồi
trong
quá
trình
thực
hiện
họ
cứ
tâng
lên
dần,
điều
chỉnh
vốn
lên
mà
không
theo
một
giới
hạn
nào.
Đáng
lẽ
một
dự
án
cần
10
tỷ
đồng
mới
thực
hiện
xong
nhưng
khi
lập
chỉ
đề
ra
5
tỷ
rồi
điều
chỉnh
lên
không
giới
hạn.
Do
vậy
buộc
các
bên
phải
tính
toán
dự
toán
thật
chu
đáo
và
cẩn
trọng
trước
khi
phê
duyệt.
Khi
thực
hiện
thì
phải
hết
sức
khắt
khe
và
kỷ
luật.
Ngay
cả
ngân
sách
quốc
gia
khi
Quốc
hội
đã
ban
hành
rồi
thì
tất
cả
các
khoản
chỉ
được
chi
trong
dự
toán.
Những
gì
được
xem
là
chi
vượt
dự
toán
chỉ
có
thể
duyệt
khi
xảy
ra
rủi
ro
đã
được
xác
định
từ
khi
lập
dự
toán.
Việc
này
phải
được
thực
hiện
một
cách
nghiêm
túc
chứ
không
phải
việc
điều
chỉnh
xảy
ra
thường
xuyên
như
thời
gian
vừa
qua.
Trong
khi
đóviệc
tại
sao
phải
điều
chỉnh
nhiều
như
thế
và
ai
là
người
chịu
trách
nhiệm
trong
việc
điều
chỉnh
thì
không
thấy
được
giải
trình.
Chính
câu
chuyện
này
khiến
cho
tình
trạng
nợ
càng
nợ
thêm
như
chúng
ta
đã
thấy.
Nguy
cơ
bất
ổn
kinh
tế
vĩ
mô
PV: - Chúng ta nói sẽ thắt chặt chi tiêu nhưng việc xin đầu tư xây dựng cơ bản vẫn đang tiếp tục tiếp diễn. Doanh nghiệp Nhà nước dù cổ phần hóa vẫn muốn xin được Chính phủ bảo lãnh nợ.
Ông
bình
luận
như
thế
nào
về
thực
trạng
này?
Nếu
tiếp
tục
nuông
chiều
những
đề
xuất
không
hợp
lý,
vấn
đề
nợ
công
của
Việt
Nam
sẽ
còn
ở
mức
như
thế
nào?
Nhìn
ra
trên
thế
giới,
bài
học
nào
khiến
Việt
Nam
phải
xem
xét
và
suy
nghĩ?
TS
Nguyễn
Đình
Cung: -
Vấn
đề
hiện
nay
chúng
ta
không
chỉ
có
đầu
tư
mà
là
chi
thường
xuyên
cũng
tăng
rất
nhanh.
Có lẽ chúng ta phải quay trở lại vai trò của nhà nước. Nhà nước thực hiện vai trò đến đâu?. Nếu vai trò của nhà nước thu nhỏ lại thì hoạt động sẽ ít đi. Còn hiện nay vai trò của nhà nước vẫn mở ra mà không nhìn thấy giới hạn thì rõ ràng hoạt động của nhà nước đến đâu thì chi đến đó.
Cho
nên
muốn
thắt
chặt
được
ngân
sách
thì
gốc
của
nó
là
vai
trò
của
nhà
nước
và
vai
trò
của
thị
trường,
các
bộ,
ngành
đến
đâu.
Tức
là
chúng
ta
chỉ
cầnlàm
rõ
vai
trò
của
từng
chủ
thể
đến
đâu
sẽ
dễ
dàng
để
nhìn
thấy
các
khoản
chi
cần
thiết
tới
mức
nào.
Ví
dụ
nhà
nước
có
cần
đầu
tư
một
hệ
thống
nhà
hát
hay
không?
Hay
là
một
hệ
thống
bảo
tàng?
Đây
quả
là
những
việc
hoàn
toàn
không
cần
thiết
nhà
nước
phải
đầu
tư
mà
có
thể
để
xã
hội
hóa.
Còn
chuyện
doanh
nghiệp
xin
ưu
đãi
thì
phải
tuyệt
đối
không
có,
kể
cả
với
DNNN
hay
tư
nhân.
Trong
trường
hợp
buộc
phải
có
ưu
đãi
thì
chỉ
có
thể
là
dành
cho
nhiệm
vụ
của
nhà
nước.
Vấn
đề
này
lại
quay
lại
chức
năng
vai
trò
nhà
nước
ở
mức
độ
nào
và
nhà
nước
tập
trung
ưu
tiên
trong
giai
đoạn
này
vào
lĩnh
vực
nào,
mục
tiêu
nào
rồi
mới
ưu
tiên
ưu
đãi
để
thu
hút
nguồn
lực
vào
thực
hiện.
Chứ
không
thể
thực
hiện
theo
kiểu
dàn
trải,
chỗ
nào
cũng
ưu
ái
thì
rõ
ràng
là
dẫn
tới
tình
trạng
không
có
giới
hạn
của
việc
chi
tiêu.
Còn
nếu
cứ
tiếp
tục
nuông
chiều
thì
đến
một
lúc
nào
đó
sẽ
không
thể
cân
đối
được
nguồn
vốn.
Mọi
thứ
sẽ
bị
phá
vỡ
thì
đương
nhiênnhiều
hệ
lụy
như
khủng
hoảng
nợ
công,
nợ
thương
mại
và
dẫn
đến
bất
ổn
kinh
tế
vĩ
mô.
Bài
học
khủng
hoảng
châu
Á
1997
-1998,
khủng
hoảng
2008-2009
của
Hoa
Kỳ
chính
là
hệ
lụy
của
sự
bao
bọc
khi
nhà
nước
làm
không
tròn
vai.
PV: - Hiện
tại
ở
Việt
Nam
tồn
tại
hai
thực
tế:
khai
thác
tài
nguyên
thô
để
bán
giá
rẻ,
vay
nợ
đầu
tư
mà
không
mang
lại
giá
trị
thặng
dư
(dẫn
tới
tình
trạng
đi
vay
để
tả
nợ
vay).
Như
vậy,
phải
nhìn
nhận
về
nội
lực
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam
như
thế
nào?
TS
Nguyễn
Đình
Cung: -
Điều
đó
có
thể
thấy
cách
thức
tạo
động
lực
để
thúc
đẩy
tăng
trưởng
kinh
tế
không
có.
Nếu
việc
kiểm
soát
hành
vi
hoạt
động
của
doanh
nghiệp
màchính
quyền
không
thật
sự
chặt
chẽ
thì
đương
nhiên
các
tổ
chức,
doanh
nghiệp
sẽ
chỉ
chạy
theo
chỉ
tiêu
phát
triển.
Trong
khi
đó
đồng
vốn
không
được
quay
vòng
để
tạo
ra
sản
phẩm
cạnh
tranh
trên
thị
trường
thì
chuyệnphải
đầu
tư
để
có
tăng
trưởng,
phải
bán
than
để
tăng
trưởng,
bán
đất
để
lấy
tiền
đầu
tư.
Khi
một
nền
kinh
tế
không
có
động
lực
để
phát
triển
thì
lợi
ích
nhóm,
tham
nhũng
cũng
sẽ
xuất
hiện.
Xin
trân
trọng
cảm
ơn
ông!
>>>Nợ công Việt Nam vượt 905 USD/người
Đất Việt
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 179
•Máy chủ tìm kiếm : 33
•Khách viếng thăm : 146
Hôm nay : 53227
Tháng hiện tại : 885684
Tổng lượt truy cập : 44253369